Nguyễn Thanh Bạch
Tên " Canada ", bắr nguồn từ ngôn ngữ của bộ lạc Da đỏ Hurons, có
chữ " Kanata " , có nghĩa là " làng " hay " xóm ".
Lịch sử Canada bắt đầu từ khi người Da đỏ di cư đến từ hàng ngàn
năm trước, trước khi có những đoàn thám hiểm của người Pháp và
người Anh đến và, sau đó là những cuộc di dân sang định cư dọc theo
duyên hải Đại Tây Dương. Những chuyến thám hiểm của ông Jacques
Cartier, người Pháp, vào các năm 1534-1535, đã tìm ra được vùng đất
Montréal. Hơn nửa thế kỷ sau, nhờ sự bảo trợ của vua nước Pháp là
Henri IV, nhà thám hiểm Samuel de Champlain, thành lập vào năm 1608
thị trấn Québec - viết là Qvebecq hay Kébec, theo ngôn ngữ của bộ
lạc Algonquins, có nghĩa là - nơi mà dòng sông thu hẹp lại - , đánh
dấu bước khởi đầu cho việc xây dựng lãnh thổ Nouvelle-France của
người Pháp.
Tên Nouvelle-France là do vua Henri IV đặt cho vùng đất thuôc đia
nầy vào năm 1609, căn cứ vào phúc trình của Samuel de Champlain.
Vào năm 1612, nhà thám hiểm được vua nước Pháp phong cho chức vị
Thống đốc (lieutenant-gouverneur).
Về phia người Anh, người thám hiểm Canada đầu tiên là ông Giovanni
Caboto người xứ Vénitie (tiếng Pháp : Jean Cabot, tiếng Anh : John
Cabot ) đã đặt chân lên vùng đất Bonavista (Terre-Neuve ) vào năm
1497, với sự bảo trợ của vua nước Anh là Henri VI I.
Chiến tranh " Bảy Năm " (1756-1763) giữa Anh và Pháp đưa đến sự
thất bại của nước Pháp tại Nouvelle-France và việc ký kết Hiệp định
Paris (1763). Nguyên do là vì hải quân của nước Anh mạnh trội hơn.
Anh quốc đã xâm chiếm vùng Québec vào năm 1759 và vùng Montréal vào
năm 1760. Với việc ký kết Hiệp định Paris, Pháp nhượng toàn bộ lãnh
thổ của mình tại Bắc Mỹ cho Anh quốc, ngoại trừ quyền đánh cá ngoài
khơi Newfoundland và hai đảo nhỏ là Saint-Pierre và Miquelon. Đổi
lại, Pháp được nhận thêm thuộc địa sản xuất đường là đảo
Guadeloupe, thời đó, được xem như có giá trị hơn vùng đất Canada.
Anh quốc ban bố Bản tuyên ngôn Hoàng gia năm 1763 thiết lập đế quốc
Bắc Mỹ mới của nứơc Anh và ổn định những quan hệ giữa chính quyền
quân chủ Anh quốc và người dân bản xứ, thông qua các pháp quy về
mậu dịch, định cư và mua đất tại Bắc Mỹ.
Năm 1774, Anh quốc ban hành Đạo luật Québec (Acte de Québec) nới
rộng quyền cai trị cho người dân gốc Pháp bằng các biện pháp như là
: áp dụng bộ Dân luật Pháp (về dân sự); quyền tự do hành đạo tuỳ
theo tôn giáo; nâng cao vai trò của người trí thức công giáo; giao
quyền thâu thuế (dîme) cho nhà thờ công giáo.
Sau khi nước Anh bị đánh bại trong cuôc chiến tranh giành độc lập
của Hoa kỳ, một số người dân gốc Anh trung thành với vua nước Anh
chạy về lập nghiệp trên đất Canada, nâng dân số người Anh lên cao.
Từ năm 1791, với Hiến chương 1791, nước Canada thuộc Anh có hai
thực thể chính trị : Bas Canada, đa số dân gốc Pháp; và Haut
Canada, ở về phía tây sông Outaouais, đa số dân gốc Anh.
Vào các năm 1837, 1838, xảy ra cuộc nội loạn của các nhà " ái quốc
" gốc Pháp (rébellin des Patriotes), bị quân đội của Hoàng gia Anh
d5p tan.
Đạo luật " Hợp Nhất " (Acte d’ Union) năm 1840 sát nhập hai vùng
Bas-Canada và Haut-Canada thành một tỉnh, tỉnh Canada, với nhiều
biện pháp nhằm đồng hoá người Canada gốc Pháp.
Sự thành lập nước Canada là một quá trình dẫn đến sự hình thành của
một quốc gia tự trị với " Đạo luật Băc Mỹ thuộc Anh " đưọc Nữ hoàng
Victoria phê chuẩn vào ngày 29 tháng 3 năm 1867 kèm theo một lời
tuyên bố như sau
Chúng tôi phán định, tuyên bố, và hạ lệnh rằng trong và sau ngày
đầu tiên của tháng 7 năm 1867, các tỉnh Canada, Nova Scotia và New
Brunswick, sẽ tạo thành một quốc gia tự trị dưới tên gọi Canada.
Đạo luật nầy thống nhất tỉnh Canada và các thuộc địa New Brunswick
và Nova Scotia, có hiệu lực vào ngày 1 tháng 7 cùng năm. Đạo luạt
nầy thay thế Đạo luật Liên hiệp (1840) trước đó đã thống nhất
Thượng Canada và Hạ Canada thành tỉnh Canada Thống nhất. Các tỉnh
riêng biệt được tái lập với các tên hiện hành là Ontario và
Québec.. Ngày 1 tháng 7 từ nay được kỷ niệm với tên là " Ngày Canada
". Hình thức chính phủ được chọn là thiết lập một liên bang dưới hình
thức vương quốc. Ông John A. MacDonald, vị Thủ tướng đầu tiên của
Canada ( 1867-1873, 1878-1891) đã từng nói về sự " thành lập một
chế độ quân chủ Anh vĩ đại " và mong muốn quốc gia mới hình thành
được gọi là " Vương quốc Canada ". Nhưng Bộ thuộc địa Anh , vì lo
ngại sẽ gây sự phản kháng của Hoa kỳ, đã lựa chọn thuật ngữ " quốc
gia tự trị " (dominion) để biểu thị tình trạng của nước Canada, là
một thực thể tự quản lý của Đế quốc Anh.
Mặc dầu Đạo luật Bắc Mỹ thuộc Anh (British North America Act) trao
cho Canada thêm quyền tự trị so với trước đó nhưng còn xa Canada
mới hoàn toàn độc lập. Sự phòng thủ Bắc Mỹ thuộc Anh trở thành một
trách nhiệm của Canada. Tuy nhiên, chính sách đối ngoại vẫn nằm
trong tay người Anh..
Canada lần lần giành thêm quyền tự chủ, và đến năm 1931 thì thu
được quyền tự trị đầy đủ trong khối " Thịnh vượng chung "
(Commonwealth), theo đạo luật Westminster. Nhưng vì các tỉnh của
Canada không thể đồng thuận về một cách thức sửa đổi hiến pháp nên
quyền lực nầy vẫn được duy trì trong tay Quốc hội Anh.
Năm 1982, quyền lực về hiến pháp được chuyển giao khi Nữ hoàng Anh
ngự chuẫn Đạo luật Canada 1982. Hiến pháp Canada được tạo thành từ
một số đạo luật được hệ thống hoá và các truyền thống chưa được hệ
thống hoá. Đạo luật Hiến pháp Canada đổi tên Đạo luật Bắc Mỹ thuộc
Anh 1867 thành Đạo luật Hiến Pháp 1867. Các cuộc bầu cử Quốc gia tự
trị được tổ chức vào tháng 8 và tháng 9 nhằm bầu ra quốc hội đầu
tiên; và bốn chính phủ cấp tỉnh mới tiến cử 72 cá nhân ( 24 cho mỗi
tỉnh Québec và Ontario, 12 cho mỗi tỉnh New Brunswick và Nova
Scotia) vào ghế Nghị viện.
Nước Canada trở thành một quốc gia hoàn toàn độc lập, có một chế độ
dân chủ nghị viện (démocratie parlementaire) và một chế độ quân chủ
lập hiến (monarchie constitutionnelle) với một vị nguyên thủ quốc
gia là Nữ hoàng Anh, Elizabeth I I.
Quốc gia Canada là một quốc gia song ngữ chính thức ( tiếng Anh và
tiếng Pháp) tại cấp liên bang. Do sự tiếp nhận người nhập cư quy mô
lớn từ nhiều quôc gia, Canada là một quốc gia đa dạng sắc tộc và đa
văn hoá. Văn hoá Canada cũng chịu ảnh hưởng mạnh mẻ của nước láng
giềng Hoa kỳ.
Hiện Canada gồm có 10 tỉnh và 3 lãnh thổ. Diện tích, lớn thứ 2 trên
thế giới : 9.984.670 km2. Vào tháng 7 năm 2014, dân số là
34.834.841 người (theo CIA World Fact Book).
Cơ cấu bộ máy quốc gia được tổ chức theo Hiến pháp năm 1867 và
1982. Chính quyền ở Canada là chính quyền 3 cấp Liên bang, Bang (
tỉnh) và địa phưong. Mỗi cấp đều có hiến pháp hoặc hiến chương
riệng trong đó ghi rõ nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của chính
quyền. Thí dụ chính quyền liên bang lo các vấn đề thuộc về đối
ngoại và các vấn đề có tính chất liên bang (như quốc phòng, đối
ngoại, phát hành tiền, ngân hàng, quy chế quốc tịch, công dân, luật
hình sự, bưu chính, vv.... Chính quyền tỉnh bang lo các công việc
như quản lý tài nguyên thiên nhiên, chính sách y tế, giáo dục, thực
thi pháp luật ở địa phương, quyền sở hữu tài sản và quyền dân sự,
quản lý tư pháp, tổ chức các chương trình phúc lợi, vv.... Chính
quyền địa phương ( chính quyền cấp thành phố- municipal) lo các
công việc thuộc về quy hoạch thành phố, phòng cháy chửa cháy, thư
viện, ban hành các quy chế điạ phưong (local-bylaws), thoát nưóc,
rác thải, vv...
Hệ thống toà án của Canada gồm có các toà án bang (tỉnh), toà án
cấp cao của bang, toà phúc thẩm của bang, và các toà án liên bang (
toà sơ thẩm liên bang, toà phúc thẩm liên bang và, ở đỉnh chóp, là
toá án tối cao của Canada ( Supreme Court of Canada).
Canada là một quốc gia phát triển, một trong số các quốc gia giàu
có nhất thế giới, thu nhập tính theo đầu người cao thứ 8 toàn cầu,
chỉ số phát triển con người cao thứ 9 (1) vào năm 2015.
Canada tham gia nhiều tổ chức quốc tế và liên Chính phủ : G7, G20,
Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ, Diễn đàn hôp tác kinh tế Châu
Á-Thái bình Dương, Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại tây dương, vv...
Quôc kỳ Canada cũng gọi là Lá phong ( tiếng Anh : Maple leaf) hay
Một lá (tiếng Pháp :
l’Unifolié), được thông qua vào năm 1965, gồm một nền đỏ và một ô
màu trắng; tại trung tâm của nó, ở giữa ô nầy, có đường nét một lá
phong đỏ với 11 đầu nhọn. Quốc kỳ xuất hiện chính thức lần đầu tiên
vào ngày 15 tháng 2 năm 1965. Ngày nầy được kỷ niệm thường niên với
tên gọi là ngày Quốc kỳ Canada.
Quá trình thống nhất Canada
Sau đây là lịch trình gia nhập Liên bang Canada :
1 – 4 : 1 tháng 7 năm 1867 : Ontario, Québec, Novia Scotia, New Brunswick.
5 – 6 : 15 tháng 7 năm 1870 : Manitoba, Northwest Territories
7 : 20 tháng 7 năm 1871 : Britsh Columbia
8 : 1 tháng & năm 1873 ; Prince Edward Island
9 : 13 tháng 6 năm 1898 : Yukon Territory (đổi thành Yukon vào năm
2003)
10-11 : 1 tháng 9 năm 1905 ; Saskatchewan, Alberta
12 : 31 tháng 3 năm 1949 : Newfoundland (renamed Newfoundland and
Labrador in 2001).
13 : 1 tháng 4 năm 1999 : Nunavut
Trong quá trình thống nhất của nước Canada, vấn đề Hiến pháp được
đặt ra, nghiêm trọng làvào thời đại của Thủ tướng Pierre Trudeau và
liên quan nhiều nhất đến tỉnh Québec.
Năm 1968, đảng Tự do Canada , do ông Pierre Trudeau lãnh đạo thắng
cử, trong khi đó xuất hiện đảng Québécois (PQ) là hậu thân của đảng
"Ralliement national", được thành lập tại tỉnh Québec để đấu tranh
cho sự độc lập của tỉnh Québec. Tổ chức chính trị nầy đã dấy lên
Phong trào " Mouvement Souveraineté-Association "(MSA).
Trong các cuộc bầu cử, tỷ lệ số phiếu bỏ cho đảng Québécois tăng
dần ( 1970 : 23%, 1973 : 30% ). Năm 1976, đảng Québécois thắng cử,
ông René Levesque lên làm Thủ tướng.
Ngày 20 tháng 5 năm 1980, một cuộc trưng cầu dân ý đươc Thủ tướng
René Levesque tổ chức nhưng người dân Québec đã bác bỏ đề nghị của
đảng Québécois với tỷ lệ bác là 59,6%, so với số phiếu thuận là
44,4%.
Vào năm 1981, Đạo luật Bắc Mỹ thuộc Anh trao quyền độc lập cho
Canada vẫn chỉ là một đạo luật của Vương quốc Anh. Thủ tướng
Trudeau muốn chấm dứt tình trạng nầy, đã đưa đến sự tranh cải và có
sư bất đồng ý kiến giữa các tỉnh. Toà Án tối cao Canada phán quyết
rằng Chính phủ liên bang Canada có quyền đơn phương hợp pháp hoá
Hiến pháp, chỉ cần một số tỉnh " đáng kể " (substantiel) đồng ý.
Cuối cùng, các tỉnh đồng ý , trừ tỉnh Québec phản đối. Vào ngày 6
tháng 12 năm 1982, Toà án tối cao Canada bác bỏ sự phủ quyết của
tỉnh Québec. Người Québec nói đến " Đêm của những con dao dài "
(Nuit des Longs Couteaux) là đêm mà Thủ tướng Canada Trudeau cùng
Thủ hiến các tỉnh, trừ Québec, đã ký kết sự thoã hiệp về bản Hiến
pháp Canada. Ý nhắc đến một biến cố lịch sử của đảng quốc xã Đức
xảy ra trong một đêm vào năm 1934. Trong đêm đó, ông Hitler phát
xít độc tài đả loại trừ tất cả những người chống đối ông (gọi là
Đêm của những con dao dài).
Với bản Hiến pháp Canada năm 1982, với quan niệm đa văn hoá, dân
tộc Québec chỉ còn là một nền văn hoá riêng biệt chứ không là người
tạo lập ra nước Canada , không còn quyền phủ quyết.
Nhiều cố gắng thay đổi đã bị thất bại vào thời Thủ tướng Brian
Mulroney như Thoả ước Lac Meech, Thoả ước Charlottetown.
Tuy nhiên, việc tỉnh Québec chưa gia nhập vào Hiến pháp Canada
không có gây hậu quả gì về phương diện pháp lý.
Trở lại nắm chính quyền vào năm 1994, đảng Québécois tổ chức cuộc
trưng cầu dân ý lần thứ hai vào ngày 30 tháng 10 năm 1995 , nhưng
cũng đã thất bại (50,58% chống, 49,42% thuận). Năm 1998, mặc dầu
tái thắng cử, đảng Québécois không có tổ chức trưng cầu dân ý nữa.
" Đạo luật Rõ ràng " (Clarity Act) của Chính phủ liên bang Canada
đề nghị và Quốc hội thông qua vào năm 2000, đòi hỏi là trưng cầu
dân ý, nếu có, cần phải có một câu hỏi " rõ ràng " và một đa số "
rõ ràng " mới có thể được công nhận.
Ngày 23 tháng 11 năm 2006, một kiến nghị của Chính phủ Canada được
Quốc hội Canada thông qua, công nhận " Dân tộc Québécois " (Nation
Québécoise) trong một nước Canada hợp nhất (au sein d’un Canada
uni).
Nguyễn Thanh Bạch
(1) Chỉ số phát triển (HDI = Human Development Index) là chỉ số so
sánh về mức lợi tức thu nhập, tỷ lệ biết chữ, tuổi thọ và một số
nhân tố khác của các quốc gia trên thế giới.
__._,_.___
Posted by: "Patrick Willay" <pwillay@orange.fr>
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen