Ngày
hôm nay 4 quốc gia Nga, Tàu, Việt Nam và Bắc Hàn đã trở nên lạc hậu và
chậm tiến. Giới lãnh đạo và trí thức cộng sản cố tìm cách tránh né trách
nhiệm của mình, bằng cách đổ lỗi cho người khác. Kiểu theo một câu châm
ngôm của dân Việt nói về Đảng Cộng sản: “ Mất mùa thì tại thiên tai;
được mùa thì bởi thiên tài đảng ta.” Giới trí thức đặc biệt của Tàu và
Việt Nam cho rằng tình trạng lạc hậu và chậm tiến là vì hoàn cảnh lịch sử và lý thuyết Khổng giáo.
Có phải như vậy hay không? Hay tại chính chế độ cộng sản?
Chúng ta hãy cùng nhau làm sáng tỏ vấn đề này !
I ) Tình trạng lạc hậu, chậm tiến của 4 quốc gia Nga, Tàu, Việt Nam và Bắc Hàn là không thể chối cãi
Thật
vậy, từ ngày chế độ cộng sản được thành lập đầu tiên ở Nga, rồi sau đó ở
Đông Âu, Tàu, Bắc Hàn và Việt Nam, người ta tính sổ ngày hôm nay, thì
không những ít nhất có 100 triệu người bỏ mạng vì cộng sản ( Theo Le
livre noir du communisme – Crimes, terreur, répression của S. Courtois,
N. Wert, J.L. Panné, A. Paczkowski, K. Bartosek, J.L. Margolin – Nhà
xuất bản Robert Laffont – Paris 1997), mà còn có tình trạng lạc hậu,
chậm tiến, tham nhũng, phản dân chủ, phản nhân quyền. Tình trạng này còn
kéo dài tới ngày nay, cả ở những nước đã thoát khỏi chế độ cộng sản như
Nga; và tất nhiên còn tồn tại ở những nước cộng sản còn lại như Tàu,
Việt Nam, Bắc Hàn, Cu ba.
Chính vì vậy mà Quốc Hội Âu châu đã ra nghị quyết 1481 kết án chế độ cộng sản là một chế độ diệt chủng.
Ngay
cả những người đã sống, lớn lên, được học tập, bị nhồi sọ bởi tuyên
truyền cộng sản, nhưng sự thật vẫn là sự thật, lương tri con người cuối
cùng vẫn chiến thắng những cái gì tàn bạo, dối trá. Tiêu biểu như ông
Gorbatchev, cựu Tổng Bí Thư Đảng Cộng sản Liên sô, tuyên bố: “Tôi đã bỏ
hơn nửa đời người đấu tranh cho lý tưởng cộng sản; nhưng ngày hôm nay
tôi phải đau buồn mà tuyên bố rằng: cộng sản chỉ biết tuyên truyền và nó
láo “. Bà Angela Merkel, đương kim Thủ tướng Đức, người trưởng thành ở
Đông Đức trước đây, được xem như nước cộng sản phát triển nhất; ông
Medvedev, đương kim Tổng thống Nga, cũng đã tuyên bố tương tự: “ Chế độ
cộng sản không những là một bộ máy tạo nên sự dối trá, lừa bịp, mà còn
là một bộ máy giết người; không những giết chính dân tộc mình, mà còn
giết cả những dân tộc khác.”
Tòa án quốc tế ở Pnomph Penh đang xử chế độ cộng sản diệt chủng Pol pot vì tội danh đã
giết hơn 2 triệu dân Căm Bốt. Ở điểm này cộng sản Việt Nam cho rằng
chính mình đã lật đổ chế độ Pol Pot, giải phóng dân Cam Bốt; nhưng phải
suy xét kỹ, chế độ Pol Pot là do ai dựng lên. Chính cộng sản Việt Nam,
mà người đó là Lê đức Thọ, con người được mệnh danh là anh Sáu Búa, vì
đứng thứ sáu trong Bộ Chính trị, và chủ trương dùng búa giết người, thủ
vai trò chính trong việc thành lập lên đảng cộng sản Căm bốt.
Trước
tòa án, tên trùm giết người ở Pnomph Penh, được mệnh danh là Douce, đã
nói rõ trước tòa rằng tất cả những thủ đoạn, kỹ thuật, đường lối giết
người của chúng tôi là do Đảng Cộng sản Việt Nam dạy. Đảng Cộng sản
Việt Nam giết người không thua gì Pol Pot, nhưng kín đáo và khôn khéo hơn, nên đã lừa dối được dư luận.
Không
những là một tổ chức giết người, mà đảng cộng sản còn đưa nước mình tới
chỗ chậm tiến và lạc hậu. Ta hãy nghe lời ông Boris Eltsine, cựu Ủy
viên Bộ Chính trị, đặc trách đảng ở Moscou, cựu Tổng thống Nga, sau khi
cộng sản sụp đổ, nói về tình trạng chậm tiến ở Liên sô, trong bài diễn
văn nhậm chức Tổng thống, nhiệm kỳ đầu :
“
Vào đầu thế kỷ 20 (ông ám chỉ cuộc cách mạng 1917 - Lời tác giả bài
này), nước Nga đang ở trên cùng một con tàu với thế giới. Nước Nga không
phải là nước đầu tàu, nhưng cũng ở trong những toa tàu hạng nhất. Thế
rồi nước Nga nghĩ rằng tự mình có thể có một đường lối phát triển riêng
biệt, đã tách khỏi đoàn tàu. Không dè, nước Nga dậm chân tại chỗ. Tình
trạng phát triển của Nga ngày hôm nay, so với những nước phát triển
khác, bị chậm cả 50 chục năm, nếu không muốn nói là cả thế kỷ.”
Ở
đây chúng ta lấy sản lượng tính theo đầu người của một số quốc gia để
so sánh. Tất nhiên tiêu chuẩn dùng sản lượng cũng không chính xác lắm;
nhưng đây vẫn là cách tính được nhiều người biết từ trước đến giờ. Tôi
vẫn dùng con số của năm 2009, cách đây 2 năm, vì tương đối đã được kiểm
chứng, thay vì những con số mới nhất bây giờ, có thể kiếm dễ dàng trên
Internet, nhưng chưa được kiểm chứng.
Sản
lượng tính theo đầu người của Nga là 8513 $; của Trung cộng là: 3547 $;
của Việt Nam là: 1 034 $; của Bắc Hàn là: 571 $; trong khi đó của Nam
Hàn là: 17 144 $; của Đài Loan là: 17 026 $; của Singapour là: 32 713 $,
của Pháp: 42 864 $, của Đức: 41 309 $, của Anh: 35 950$, của Hoa kỳ:
42 772$, của Nhật: 41 138$.
Nói
như ông Lý quang Diệu, cựu Thủ tướng Singapour với những giới lãnh đạo
cộng sản Tàu và Việt Nam, theo tường thuật của báo chí : “ Tiếc cho các
Anh là đã chọn lầm chế độ cộng sản, nên nước các Anh mới lâm vào tính
trạng lạc hậu, chậm tiến ngày hôm nay. Nhưng chúng tôi phải cám ơn các
Anh, vì như vậy mà nước chúng tôi mới có ngày hôm nay.”
I I ) Nguyên do tại đâu
Tuy
nhiên vẫn có người, nhất là giới lãnh đạo và trí thức cộng sản, ở Việt
Nam và Trung cộng, tìm cách đổ lỗi cho ảnh hưởng của chế độ quân chủ
nặng nề và tư tưởng Khổng giáo.
Điều này tôi không phủ nhận.
Quả
thật, nước Tàu và Việt Nam đã bị ảnh hưởng sâu đậm bời tư tưởng Khổng
và chế độ quân chủ, nhất là quân chủ tập quyền, kéo dài quá lâu, nếu
chúng ta so sánh 2 nước này với Nhật, mà sản lượng tính theo đầu người
hàng năm là 41 138 $, gần gấp 40 lần của Việt Nam và mười mấy lần của
Tàu.
Nếu
chúng ta chấp nhận giả thuyết, theo đó nhân loại đã trải qua 5 nền văn
minh: văn minh trẩy hái lúc ban đầu, con người còn ăn lông ở lỗ, hái
trái cây và săn thú chung quanh hang của mình. Sau đó vì cây trái và súc
vật trở nên khan hiếm, con người phải đi xa để kiếm ăn, nó bước sang
nền văn minh du mục. Nhưng dù đi xa, từ từ cây trái xúc vật cũng không
còn nhiều; con người bắt buộc phải trồng trọt và nuôi xúc vật để sinh
sống. Nó bước sang nền văn minh trồng trọt, định cư nông nghiệp, mà mô
hình tổ chức nhân xã tương ứng là chế độ quân chủ, với trật tự xã hội: “
Sĩ, nông, công, thương “: thứ nhất là sĩ tức giai tầng có học, thứ nhì
là giai tầng nông nghiệp, thứ ba là những người làm công nghệ, sau cùng
mới tới giai tầng nhà buôn.
Nhiều
người nghĩ là trong chế độ quân chủ chỉ có 4 giai tầng này. Nhưng họ đã
lầm, vì còn có giai tầng cao nhất là vua, triều đình và con cháu, đó là
giai tầng quí tộc. Sĩ còn đứng dưới giai tầng này, nhất là ở Á châu,
Tàu và Việt Nam.
Với
nền văn minh định cư nông nghiệp, con người đã có thể thỏa mãn những
nhu cầu thiết yếu của mình. Một khi những nhu cầu thiết yếu được thỏa
mãn, con người bước sang đòi hỏi những nhu cầu xa xỉ, như khi tôi có thể
trồng lúa mì, nhưng tôi thích ăn gạo, thì tôi trao đổi với người trồng
lúa, khi tôi có thể dệt vải, nhưng tôi thích mặc lụa, thì tôi trao đổi
với người dệt lụa. Con đường tơ lụa cũng như con đường buôn bán gia vị
để tăng khẩu vị trong lịch sử nhân loại thành hình là vì vậy.
Với
sự trao đổi thương mại, con người từ nền văn minh nông nghiệp bước sang
nền văn minh thương mại. Mô hình tổ chức nhân xã tương xứng của nền văn
minh thương mại, là mô hình tổ chức nhân xã tự do, dân chủ và kinh tế
thị trường. Chế độ dân chủ không những được cắt nghĩa dưới khía cạnh
kinh tế, vì trao đổi là phải có ít nhất 2 người, mà được cắt nghĩa cả
trên bình diện triết học nhị nguyên và tâm lý, ở chỗ nếu muốn buôn bán
mà “độc nguyên, chỉ có một mình, thì buôn bán với ai “, và từ chỗ trao
đổi hàng hóa, bắt buộc phải có đối thoại, phải có đa nguyên.
Tinh thần dân chủ đến từ chỗ đó, vì theo như Socrate: “ Nơi nào có đối thoại, nơi đó có tiến bộ và dân chủ “.
Trong
thời văn minh thương mại, con người đã phát minh ra điện, điện thoại,
máy điện tóan, con người không cần phải đi xa, mà có thể ngồi một chỗ để
trao đổi, con người bước sang nền văn minh thứ 5 ngày hôm nay. Đó là
nền văn minh tri thức, điện tóan.
Điện toán như đã nói ở trên, còn tri thức vì với nền văn minh này, sự giàu có của một quốc gia, dân tộc không còn được định bởi quốc gia đó có nhiều đất đai và nhân công dựa trên sức mạnh bắp thịt, chân tay, mà dựa trên sức mạnh trí tuệ, đầu óc con người. Nước nào giàu có, đó là nước có một đội ngũ trí thức có nhiều phát minh sang kiến, điển hình là Nhật Bản và Singapour ở Á châu. Nước Nhật là nước có động đất và núi lửa. Singapour là một nước rất nhỏ, diện tích là 620 km2, dân số là 5 triệu người, là một nước rất phát triển, nhờ ở một đội ngũ trí thức và chuyên viên đông đảo, sản lượng tính theo đầu người hàng năm là 32 713 $, gấp 30 lần Việt Nam, gấp 10 lần Trung cộng và gấp 60 lần Bắc Hàn.
Điện toán như đã nói ở trên, còn tri thức vì với nền văn minh này, sự giàu có của một quốc gia, dân tộc không còn được định bởi quốc gia đó có nhiều đất đai và nhân công dựa trên sức mạnh bắp thịt, chân tay, mà dựa trên sức mạnh trí tuệ, đầu óc con người. Nước nào giàu có, đó là nước có một đội ngũ trí thức có nhiều phát minh sang kiến, điển hình là Nhật Bản và Singapour ở Á châu. Nước Nhật là nước có động đất và núi lửa. Singapour là một nước rất nhỏ, diện tích là 620 km2, dân số là 5 triệu người, là một nước rất phát triển, nhờ ở một đội ngũ trí thức và chuyên viên đông đảo, sản lượng tính theo đầu người hàng năm là 32 713 $, gấp 30 lần Việt Nam, gấp 10 lần Trung cộng và gấp 60 lần Bắc Hàn.
Để
có một đội ngũ trí thức nhiều phát minh sáng kiến, bắt buộc phải là chế
độ dân chủ, vì dân chủ không những là mảnh đất cho phát triển kinh tế
nẩy mầm, mà còn cho con người, trí tuệ con người phát triển, ngược lại
với chế độ độc tài, con người phải suy nghĩ rập khuôn theo triều đình
hay chính quyền độc tài, thì làm sao có thể có ý kiến hay, mới lạ, có
phát minh, sáng kiến. Ở điểm này có nhiều người cho rằngSingapour, Nam Hàn
và Đài loan trước đây vẫn là một nước độc tài. Nhưng họ đã vô tình hay
cố tình lầm, vì độc tài ở những nước này không phải là một độc tài toàn
diện. Lấy thí dụ điển hình như ở Singapour, mặc dầu do một đảng cầm
quyền nhưng vẫn có đối lập, vẫn có tự do báo chí, vẫn có công đoàn. Lý
quang Diệu độc tài là độc tài chống lại những cái gì xấu cho quốc gia
dân tộc, như việc khạc nhổ ngoài đường, việc tham nhũng hối lộ, nghiêm
ngặt thực thi luật lệ, không phải áp dụng cho một tầng lớp mà cho tất cả
mọi người, mọi tầng lớp. Khác hẳn với tình trạng xã hội của những nước
cộng sản, hối lộ tham nhũng lan tràn, tệ nạn bất công xã hội gia tăng,
luật lệ là chỉ để áp dụng cho dân thấp cổ bé họng, còn các ông lớn và
con ông cháu cha thì ngồi xổm lên pháp luật.
Để
cắt nghĩa tại sao văn minh Đông phương, nếu chúng ta kể cả các nước Ả
rập, đến rất sớm, nhưng rồi khựng lại và bị vượt qua mặt bởi văn minh
Tây phương, có nhiều lý do, nhưng lý do chính, đó là chế độ quân chủ,
rồi tiếp sau đó là chế độ độc tài, độc tài cộng sản hay độc tài quân
phiệt, độc tài bộ lạc, chủng tộc hay gia đình, kéo dài quá lâu, giết
chết ý chí tiến thủ, phát minh sáng kiến của dân, và đã biến giai tầng
sĩ phu trí thức, mặc dầu đứng trên 3 giai tầng khác, nhưng vẫn đứng dưới
giai tầng quí tộc là triều đình hay dưới chính quyền độc tài với con
ông cháu cha, làm cho người trí thức trở thành một bộ máy nhai lại, nhai
lại cái gì do triều đình và chính quyền độc tài nhả ra. Thêm vào đó,
với chính sách “ nếu thuận theo triều đình hay chính quyền thì
được bổng lộc, nếu không thì bị trù dập, không những riêng cá nhân, mà
cả gia đình, nhiều khi cả gia tộc “, làm cho người trí thức trở thành bộ
máy “ Trên đội, dưới đạp “, trên thì đội quan quyền, dưới thì đạp dân.
Câu tục ngữ Việt Nam “ Chưa đỗ ông nghè, đã đe hàng tổng “ là như vậy.
Thật thế, nếu chúng ta nghiên cứu lịch sử Tàu, thì chúng ta thấy rất rõ sự kiện lịch sử trên.
Nước
Tàu là nước có nhiều phát minh sáng kiến rất sớm, nào là tơ lụa, địa
bàn, thuốc súng, máy in v.v... Nước Tàu phát minh ra kỹ thuật in vào thế
kỷ thứ bẩy sau Tây lịch, phải
chờ đến thế kỷ thứ 15, Gutenberg mới phát minh ra máy in tại Âu châu.
Chính người Tàu phát minh ra thuốc súng và la bàn, nhưng chính nhờ la
bàn và thuốc súng mà người Tây phương đã đến xâu xé nước Tàu hồi giữa
thế kỷ thứ 19.
Nhiều
người cho rằng 3 triều đại lớn và huy hoàng nhất của lịch sử Tàu: đó là
triều đại nhà Hán (206 trước Tl – 219 sau Tl); triều đại nhà Đường (
618 – 823); và nhà Thanh ( 1660- 1911). Nhưng theo tôi, mặc đầu không
phải là một triều đại, nhưng thời kỳ huy hoàng nhất của lịch sử Tàu, đó
là thời kỳ Xuân thu (722 – 403 t TL) và Chiến quốc ( 403- 256 t TL).
Không ai chối cãi được rằng vào thời đó, có những Lão Tử, Khổng Tử, Tôn
Tử, Tuân Tử v.v…, và còn nhiều nhà học thuật tư tưởng khác, được mệnh
danh là Bách gia chư tử, cả trăm nhà tư tưởng, học thuật.
Trước
đó là triều đại nhà Chu (1134 – 722 t TL). Nhà Chu chính là chế độ quân
chủ phong kiến, trên thì có vua, triều đình, dưới là hàng quí tộc, được
vua phong hầu và cấp đất đai ( kiến ấp). Đây có thể nói là chế độ quân
chủ tản quyền. Nhưng vì phong nhiều tước vị và đất nên triều đình trở
nên càng ngày càng yếu, đã xẩy ra việc các công hầu xưng vương, xưng bá,
coi thường triều đình. Đó là thời Xuân Thu Chiến quôc.
Nhiều
người cho rằng đây là thời bất ổn, loạn lạc của xứ Tàu. Nhưng với cái
nhìn của tôi, thì đây là thời duy nhất mà nước Tàu tương đối có dân chủ,
nhất là đối với giới sĩ phu, trí thức, vì nếu họ bị bạc đãi, trù dập ở
nước này, thì họ có thể chạy sang xứ khác để được yên thân, và nhiều khi
còn được trọng dụng để quay về trả thù nước cũ đã đối xử tàn tệ với
mình. Điển hình là Ngũ tử Tư, bị bạc đãi ở nước Sở, sau trốn sang nước
Ngô, làm Đại nguyên Soái, mang quân về trả thù nước Sở.
Cũng
chính vào thời đại này mà nhân tài được trọng dụng, vì mọi nước, nhất
là nước lớn đều thi đua nhau tìm và chọn lựa nhân tài, điển hình là vua
Tần mục Công của nước Tần đã bỏ ra 5 bộ da dê để mua Bách Lý Hề về làm
Tể tướng, có thể nói là người đầu tiên đã làm cho nước Tần hùng mạnh,
sau đó rồi mới tới Lữ bất Vi, Lý Tư, do đó mới có thể đánh bại những
quốc gia khác.
Ngay
cả Khổng Tử vào thời này cũng đã có thể mở trường dạy học một cách tự
do, cho tất cả mọi con dân, chứ không phải dành riêng cho con cháu quí
tộc, như trước đó, và ông ta đã có thể đi chu du nhiều nước để truyền bá
tư tưởng, mà không bị cấm đoán, nếu như không nói là còn được giúp đỡ.
Mặc dầu ông không thành công lắm trong việc làm quan, nhưng học trò của
ông đã làm quan ở nhiều nơi.
Điều
đáng tiếc là người ta chỉ thấy cái mặt bảo thủ, phong kiến của Khổng
Tử, vì những chế độ quân chủ tập quyền, bắt đầu từ đời nhà Hán, đã lấy
cái gì quân chủ phong kiến của Khổng làm nên ý thức hệ, để phục vụ triều
đại mình, mà quên đi cái mặt dân chủ, như việc mở trường dạy học cho
tất cả mọi người, cũng như những câu truyện về dân chủ, trong đó có câu
truyện, theo đó, Khổng Tử, một hôm đi qua một khu rừng, thấy một bà cụ
ngồi khóc. Khổng Tử hỏi tại sao cụ khóc, thì được trả lời rằng hổ báo đã
ăn thịt con tôi và chồng tôi. Khổng tử hỏi lại tại sao ở đây có hổ báo
mà cụ không dọn đi nơi khác để ở, thì được trả lời rằng dù ở đây có hổ
báo, nhưng vị quan cai trị ở đây lại hiền từ, khác với những nơi khác.
Điều này Không Tử muốn ám chỉ rằng những chế độ, những quan cai trị độc tài, gian ác, còn nguy hiểm, giết dân hơn cả hổ báo.
Lịch
sử cận đại đã chứng minh điều này : chế độ độc tài cộng sản đã giết cả
100 triệu người dân. Riêng Mao trạch Đông, theo 2 nhà sử gia Jung Chang
và Jon Halliday, thì đã giết cả 70 triệu dân Tàu ( Theo quyến sách Mao
của Jung Chang và Jon Halliday – trang bìa sau - nhà xuất bản Gaillimard
– Paris 2005).
Người
ta có thể nói chế độ quân chủ độc tài tập quyền bắt đầu từ thời nhà Tần
( 221 – 206 t TL), tiếp nối bởi nhà Hán ( 206 t TL – 219 s TL), rồi
được tăng cường bởi nhà Nguyên ( 1279 – 1368), nhà Minh ( 1368 – 1660),
nhà Thanh ( 1660-1911) và ngày hôm nay với chế độ cộng sản ( 1949 cho
tới hôm nay).
Người
ta chỉ nhìn thấy mặt tích cực của Tần Thủy Hoàng, đó là đã thống nhất
nước Tàu. Nhưng người ta đã không thấy mặt tiêu cực, đó là đã tạo nên
chế độ quân chủ tập trung cực quyền, chấm dứt thời đại Xuân Thu Chiến
Quốc, một thời đại, theo tôi nghĩ là duy nhất mà nước Tàu có được tương
đối dân chủ, nên thời đại này, cũng theo tôi nghĩ, đó là thời đại huy
hoàng nhất của nước Tàu, nhân tài bối xuất, có hiện tượng « Thuyền Nhân
« , ( Boat People) : dân, nhất là giới trí thức, có thể chạy tỵ nạn từ
nước này sang nước khác, và nhiều khi được tiếp đón nồng hậu, được làm
quan lớn, như trên vừa kể, đó là Ngũ tử Tư và Bách lý Hề.
Chính
trong thời đại Xuân Thu Chiến Quốc này, nước Tàu, qua ba nhân vật tiêu
biểu của giới thương mại là Quản Trọng, Phạm Lãi và Lữ bất Vi, đã có ý
định làm nước tàu chuyển mình từ văn minh định cư nông nghiệp, với mô
hình tổ chức xã hội là quân chủ, với trật tự xã hội là « Sĩ, nông,
công, thương «, sang văn minh thương mại với ý định đảo lộn trật tự xã
hội trên.
Nhưng
cả ba người đều thất bại, vì chế độ quân chủ, giai tầng quí tộc quá
mạnh, cộng thêm với giai tầng trí thức, bị giai tầng quí tộc biến thành
quan lại, với đầu óc « Trên đội, dưới đạp «, đã kéo dài quá lâu ở Tàu,
cho tới ngày hôm nay, với chế độ cộng sản, chẳng qua chỉ là một chế độ
quân chủ trá hình, mà còn dơ bẩn, ác ôn, côn đồ hơn chế độ quân chủ
trước đó.
Thật
vậy, nước Tàu đã có những ý định thoát khỏi nền văn minh định cư nông
nghiệp với mô hình tổ chức nhân xã quân chủ phong kiến, độc tài, từ lâu,
rất sớm. Từ thời Xuân Thu Chiến Quốc qua hình ảnh của Quản Trọng, Phạm
Lãi và Lữ bất Vi.
Quản
Trọng (725 – 645 tTL) : Tên ban đầu là Di Ngô, nên người ta thường gọi
là Quản Di Ngô, được Tề Hoàn công phong làm tể tướng và tôn lên làm
trọng phụ, trao hết quyền bính cho ông ở nước Tề, nước làm bá chủ đầu
thời Xuân Thu. Có thể nói ông là người tiêu biểu đầu tiên cho giai tầng
kỹ nghệ, thương gia nước Tàu, vì ông đã biết khai thác muối và sắt để
bán cho dân. Ông còn lập những nhà quán có mãi dâm để làm giàu cho nước.
Những tú bà hiện nay thờ Quản Trọng là vậy. Vào lúc đó ở nước Tề có 2
người công tử có thể lên làm vua. Ông và bạn ông là Bảo thúc Nha đã tính
toán, chia ra mỗi người thờ một công tử, và hẹn nhau nếu ai thờ đúng
thì sẽ giới thiệu người kia. Bảo thúc Nha thờ đúng, và đã giới thiệu
Quản di Ngô với Tề Hoàn Công, lúc đầu Tề hoàn Công từ chối, vì Quản
Trọng đã dùng cung bắn vào người Tề hoàn Công, may không chết, chỉ trúng
vào thắt lưng, có đai thắt lưng che chở.
Nhưng
sau đó vì lời thuyết phục của Bảo thúc Nha, Tề hoàn Công dùng ông, và
không những trao hết binh quyền mà còn tôn làm thầy, vì vậy được phong
là Trọng phụ.
Qua cuộc đời và những việc làm của ông, chúng ta có thể rút ra những kết luận sau :
Ông
và Bảo Thúc Nha không còn quan niệm cổ hủ về chữ trung : « Trai khôn
không thờ 2 chúa. Gái chính chuyên chỉ có một chồng », vì 2 người đã
chia nhau để thờ 2 chúa. Đây có thể nói là quan niệm cách mạng vào thời
bấy giờ, và là một tính toán có tính cách thực tế và thương mại. Ông
biết rõ rằng chế độ quân chủ phong kiến đã lỗi thời, nhưng vì giai tầng
quí tộc còn mạnh và ngay cả người dân vẫn còn u mê, tin vào chế độ này ;
nên ông đã dùng Tề hoàn Công như một cái dù, che chở cho ông trước
những sự chống đối của giới quí tộc, để ông rảnh tay làm những việc
khác. Ngay cả tôn thờ Thiên tử nhà Chu cũng vậy. Ông biết rằng nhà Chu
đã hết thời, nhưng ông vẫn tôn thờ, để thực tế có thể đưa nước Tề lên
làm bá chủ.
Về
cách trị quốc và kiến quốc : Ông dùng những người có tài, chứ không
nhất thiết là những con ông cháu cha của giòng quí tộc, thưởng phạt
nghiêm minh, chứ không phải chỉ phạt dân thấp cổ bé họng và tha cho con
ông cháu cha.
Về
kinh tế, ngoài việc ông vẫn phải giữ một số đất đai cho giai tầng quí
tộc, nhưng phần lớn đất đai còn lại, ông phân phát cho những ai, những
gia đình nào có khả năng canh tác tốt. Ông còn khuyến khích công nghiệp,
chia ra thành làng, tùy theo khả năng công nghiệp của mình, và ông
khuyến khích sự trao đổi từ làng này qua làng khác. Đây là tinh thần
chia công việc ( Division du travail ) theo quan niệm kinh tế bây giờ,
và quan niệm « Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh «.
Ông
bỏ quan niệm lỗi thời nghề này quí hơn nghề kia. Ông khuyến khích việc
khai thác sắt và muối, ngay cả mở những nhà điếm để làm giàu cho quốc
gia.
Người
ta có thể nói ông là người đầu tiên trong lịch sử nước Tàu, muốn chuyển
từ văn minh định cư nông nghiệp, với mô hình tổ chức nhân xã quân chủ
độc tài, sang văn minh kỹ nghệ, thương mại, với mô hình dân chủ, tự do,
kinh tế thị trường. Nhưng ý định này đã thất bại sau khi ông chết, vì
tinh thần bảo thủ và quan niệm quân chủ còn quá mạnh ở Tàu.
Phạm
Lãi : Người ta không rõ ngày, tháng, năm sinh cũng như ngày, tháng, năm
chết của ông ; nhưng người ta biết rõ ông sống vào cuối thời Xuân Thu,
đầu thời Chiến Quốc. Ông là một người tướng có tài, nhưng ông lại là một
người giao thiệp rất rộng, biết nhiều người, biết nhiều người phụ nữ
đẹp, trong đó có Tây Thi, mà tương truyền cho rằng đó là người yêu của
ông; nhưng vì việc nước, ông đã hi sinh, cống hiến Tây Thi cho vua Ngô
Phù Sai.
Ông
đã giúp Việt Vương Câu Tiễn thành lập quân đội, để trả thù nước Ngô của
vua Phù Sai. Ông có nhận xét tinh tế về con người và biết thời, biết
thế. Mặc dầu ông giúp Câu Tiễn, nhưng ông biết rõ con người của Câu Tiễn
chỉ có thể sống chung khi hàn vi, nhưng khi thành công, thì con người
này trở nên độc đoán và tìm cách hại công thần. Ông khuyên Văn Chủng,
một công thần lớn của nước Việt thời Câu Tiễn bỏ trốn đi, nhưng ông này
không nghe, sau bị Câu Tiễn giết.
Về
cái chết của ông, có 2 giả thuyết : 1) Giả thuyết thứ nhất cho rằng ông
cũng bị Câu Tiễn giết một cách kín đáo và âm thầm ; 2) Giả thuyết thứ 2
cho rằng sau khi giúp Câu Tiễn thành công, ông cùng Tây Thi bỏ đi, trốn
sang xứ Tề, làm ăn buôn bán giàu có, đổi tên họ thành Đào Công.
Tôi
tin vào giả thuyết thứ 2 này, vì dựa trên quyển Sử Ký của Tư Mã Thiên,
và tôi tin tưởng rằng Phạm Lãi là người đủ trí khôn và đủ quen biết,
nhiều đường giây để chạy thoát khỏi Câu Tiễn. Hơn thế nữa ông còn là một
Đại Tướng Quân, thế lực ông còn mạnh, nhất là vừa mới thắng vua Ngô Phù
Sai, Câu Tiễn không dám làm gì ông.
Ông
có thể được coi như người thứ nhì nhìn rõ sự lạc hậu, thối nát của chế
độ quân chủ ; mặc dầu ông giúp Câu Tiễn, cùng khổ sở với Câu Tiễn, trong
thời gian bị vua Ngô Phù Sai cầm tù ở nước Ngô ; nhưng ông cũng không
tin tưởng ở con người này và chế độ quân chủ độc tài cực quyền, tất cả
quyền hành thuộc về tay một người là nhà vua.
Lữ bất Vi ( 292 – 235 t TL)
Xuất
thân từ một gia đình thương gia cuối thời Chiến Quốc. Theo truyện Đông
châu Liệt quốc và ngay cả Sử ký của Tư Mã Thiên thì ông là « Cha thật
« của Tần Thủy Hoàng. Nhưng có giả thuyết bác lại. Ở đây, tôi không là
sử gia, nhất là của Tàu, tôi không dám bàn cãi. Tuy nhiên, dù sao chăng
nữa, Lữ bất Vi đã đóng một vai trò rất quan trọng trong việc đưa hoàng
tử Tử Sở về nước Tần, rồi lên ngôi vua, mà Tử Sở, dù sao chăng nữa cũng
là « cha chính thức « của Tần Thủy Hoàng, chính vì vậy mà khi Tử Sở,
tức Trần Trang vương chết, Tần Thủy Hoàng mới được lên ngôi kế vị. Ở
điểm này, phải nói là sự lên ngôi của Tần Thủy Hoàng là có công lao của
Lữ bất Vi.
Ông là tiêu biểu nhất cho giai tầng thương gia. Bố ông cũng là thương gia.
Tương truyền rằng một hôm Tần Thủy Hoàng về hỏi bố :
Làm ruộng lời hay đi buôn bán lời ?
- Buôn bán lời.
Buôn bán vàng bạc, châu báu và buôn bán người, giúp họ lên làm vua, thì cái nào lời hơn ?
- Buôn bán người lên làm vua thì rất khó nói. Nếu trúng, thì lời không biết thế nào mà kể, hơn tất cả mọi thứ buôn bán khác.
Chính
vì vậy mà ông đã « đầu tư buôn bán « hoàng tử Tử Sở, đang bị làm con
tin ở Triệu quốc, giúp đỡ, gả người thiếp đã mang thai với ông, sau lập
kế đưa về Tần làm thái tử, rồi lên làm vua và ông được chỉ định làm tể
tướng.
Ông
là một thương gia biết tiêu tiền, khi nào nên tiêu thì tiêu, không tiếc
và dám mạo hiểm, như việc bỏ tiền ra cho Tử Sở để mua chuộc lòng
người ; ông là một thương gia hào phóng. Việc ông mở ra « Khách quán
« , chứa cả ngàn khách thập phương, và biết hướng dẫn họ bàn luận về đủ
mọi vấn đề, để làm ra quyển sách Lữ thị Xuân thu, cả vạn trang.
Đây
là một quyển Bách khoa tự điển lúc bấy giờ. Ông không ngần ngại bắt
chước những Tín lang quân ở nước Ngụy, Bình nguyên quân ở nước Triệu,
Mạnh thường quân ở nước Tề, mở nhà khách, cho ở và cho ăn cả ngàn người
thập phương, thường là những trí thức bị trù dập, bị đuổi giết ở xứ
mình, nay phải lưu lạc. Đây là một hình thức « Trung tâm thuyền nhân «
vào thời bấy giờ.
Nhưng
hơn những người trên, vì ông biết hướng dẫn những trí thức thuyền nhân
này bàn luận về đủ mọi vấn đề, để làm ra quyển Lữ thị Xuân Thu.
Điều
này chứng tỏ ông là một nhà trí thức, không những vậy, mà còn là một
nhà cách mạng, vì ông xuất thân là giai tầng thương gia, theo trật tự «
Sĩ, nông, công, thương «, lúc bấy giờ, đó là giai tầng thấp nhất, thế
mà ông dám nghĩ « trèo cao « .
Theo
như sử sách, thì ông thường dùng câu : « Khắc châu, cầu kiếm « , để
chê những trí thức bảo thủ, học từ chương, kinh điển, cố khắc vào đầu
những điển tích, hư văn, sáo ngữ, mà quên đi sự biến chuyển của thế giới
bên ngoài, được ông ví như một kẻ ngồi trên thuyền, không ý thức được
thuyền đang đi, bị rớt kiếm, và lấy dao khắc vào mạn thuyền, nghĩ rằng
kiếm rớt ở chỗ này, sau này sẽ tìm kiếm.
Đó là ông mỉa mai cái học từ chương, trích câu tầm cú, được chính thức và hệ thống hóa với Hán Vũ Đế và Đổng trọng Thư sau này.
Nhưng những ý định này bị thất bại vì nhiều lý do, trong đó ít nhất có 2 lý do chính :
Đó
là chế độ quân chủ ở Tàu quá ác ôn côn đồ, một thí dụ điển hình là chế
độ tru di tam tộc và hơn thế nữa cửu tộc, mà không có ở đâu trên thế
giới ; nhà vua và triều đình nắm tất cả từ quyền hành chính trị tới kinh
tế qua câu nói : « Vua là Thiên tử. Tất cả đều thuộc về nhà vua, từ
thần dân cho đến gốc cây, ngọn cỏ ; « Chỉ có ở Tàu mới có hiện tượng
hoạn quan, và vua có thể có cả ngàn cung tần, mỹ nữ.
Lý
do thứ hai là từ thời Hán Vũ Đế với Đổng trọng Thư, đã biến Nho giáo,
mà phần chính là lấy tư tưởng bảo thủ của Khổng Tử và đồ đệ, quên đi
phần tân tiến, dân chủ để biến thành ý thức hệ chính thức của triều
đình, thành chương trình đào tạo kẻ sĩ, để bảo vệ triều đình và duy trì
trật tự xã hội cũ : « Sĩ, nông, công, thương « , biến kẻ sĩ thành một
người công chức, có đầu óc « Trên đội, dưới đạp «.
Cái học trở thành từ chương, sáo ngữ, học để có bằng cấp, để có chức vị, nhằm vinh thân phì gia trong xã hội, bắt đầu từ đó.
Những
người có đầu óc thực tế, thực tiễn, hơi cách mạng một tý thì bị trù
dập. Trường hợp của Vương dương Minh, sau này, với triết lý « Tri hành
đồng nhất «, vào thời nhà Minh ( 1368 – 1660), nhưng họ Vương cũng bị
trù dập, triết lý của ông lại gặp khó khăn ở Tàu, nhưng lại thịnh hành ở
Nhật. Đây là một trong những lý do chính giúp nước Nhật có thể canh tân
sớm và bắt kịp thế giới.
Trường
hợp Việt Nam cũng vậy, vì trên phương diện ngoại giao, thì Việt Nam độc
lập, nhưng trên phương diện văn học, luật lệ về trị quốc thì theo Tàu.
Chúng
ta lấy một thí dụ điển hình, đó là Nguyễn công Trứ, có một vài ý tưởng
tiến bộ, mà cũng bị triều vua Minh Mạng trù dập, thi cử lận đận, làm
quan có lúc bị cách chức xuống làm lính. Những người có một vài tư tưởng
cách mạng như Cao bá Quát, thì bị chém đầu.
Trở về với nước Tàu với cái học « Khắc châu, cầu kiếm » từ thời Hán vũ đế và Đổng trọng Thư.
Hán vũ Đế (156 – 87 TTL)
Ông
là vua thứ 5 nhà Tây Hán. Ông cai trị nước Tàu từ năm 140 TTL, lúc ông
mới 16 tuổi, cho tới năm 87 TTL, trong vòng 56 năm, là một trong những
ông vua ở ngôi vị lâu nhất của nước Tàu, sau Càn Long và Khang Hi. Ông
được coi là ông vua tài ba, nhưng rất độc tài và tàn ác. Ông sùng bái
đạo Nho, không theo chính sách vô vi của đạo Lão, thích Pháp gia, như
người lập lên triều đại nhà Hán, Hán cao Tổ, như Tần Thủy hoàng lúc ban
đầu, vì Tần Thủy Hoàng về cuối đời có khuynh hướng theo đạo Lão, vì muốn
sống trường sinh, bất tử.
Đây là một trong những lý do làm cho Tần Thủy Hoàng trọng dụng Triệu Cao lúc cuối đời.
Suy
ngẫm về những triều đại trước, thấy các vương hầu thường làm phản, Hán
vũ đế quyết định bỏ hẳn chế độ phong kiến ( phong hầu và kiến ấp ). Chế
độ quân chủ đã trở thành chế độ quân chủ tập trung từ thời Tần Thủy
Hoàng, nhưng vào lúc này, mới chỉ là tập trung về chính trị, quân đội.
Với Hán Vũ đế, là một chế độ tập trung về mọi phương diện và đã được hệ
thống hóa, nhất là về văn hóa, giáo dục, với ý thức hệ Nho giáo, do Đổng
trọng Thư và 50 người bác sĩ dựng lên. Chính họ Đổng đã hệ thống hóa
đạo Nho trước đó và biến nó trở thành ý thức hệ chính thức của quốc gia,
thành chương trình học để đào tạo nho sĩ.
Theo
như sử sách, thì Hán vũ Đế, đã kêu Đổng trọng Thư, cùng với 50 người
bác sĩ, họp ở điện Thái Hòa, bàn về « Muối và Sắt « , nhưng trên thực
tế là bàn về trật tự xã hội tương lai, vẫn giữ trật tự « Sĩ nông công
thương « hay thay thế nó bằng một trật tự nào khác, vì xã hội Tàu lúc
bấy giờ, vai trò của thương trở nên rất có ảnh hưởng thực tế trong xã
hội, theo kiểu những câu nói : « Nhất sĩ nhì nông, vác dá chạy rong,
nhất nông nhì sĩ « hay « Nhất sĩ nhì thương, đến khi cần tiền, thì
nhất thương, nhì sĩ «.
Vào
lúc đó vấn đề buôn bán của nước Tàu cũng rất mạnh. Thành Hàm Đan vẫn là
một trung tâm buôn bán lớn. Giới thương có rất nhiều ảnh hưởng, nhất là
buôn bán muối và sắt.
Sau
cả tháng bàn, Đổng trọng Thư và 50 người bác sĩ đưa ra đề nghị vẫn giữ
trật tự xã hôi cũ : « Sĩ nông công thương «, và lấy đạo Nho, được hệ
thống hóa bởi Đổng trọng Thư và những nhà bác sĩ nói trên, làm ý thức hệ
quốc gia, làm chương trình đào tạo kẻ sĩ, đồng thời cũng đề nghị phải
đào tạo ra rất nhiều sĩ ở trong nước. Hai đề nghị này được Hán Vũ Đế
chấp nhận. Chính vì vậy mà thời đó triều đình đã mở trương rất nhiều, có
những trung tâm đào tạo sĩ với cả trăm dãy nhà, hàng chục ngàn học
viên. Vào thời Vũ đế, như trên đã nói chỉ có 50 bác sĩ, thế mà chỉ 3 đời
sau, thời Tuyên đế đã có tới 5 000 bác sĩ.
Cũng
chính từ đó mà kẻ sĩ trở nên đông, nhưng trở thành những quan lại, một
loại công chức, chỉ còn là một bộ máy nhai lại, học những cái đã có,
những cái đã được chấp nhận của triều đình, hết ý chí sáng tạo.
Nước
Tàu là một nước có nhiều phát minh sáng kiến trước đó, với Bách Gia Chư
tử thời Xuân Thu Chiên Quốc, từ thời Hán Vũ Đế, với Đổng Trọng Thư, tới
nay đã cả 2 000 năm, về mặt tư tưởng thì không có gì mới lạ, nhất là
dưới thời cộng sản không còn phát minh sáng kiến nữa.
Đổng trọng Thư (179 – 117 TTL)
Ông
xuất thân từ nhà nông, một đại địa chủ. Thưở bé đã rất ham học. Thời
Hán Cảnh đế ( 159 – 141 TTL), ông đã giữ chức bác sĩ, có nghĩa là người
giảng về kinh điển của Nho học. Khi Hán Vũ đế nối nghiệp Hán Cảnh đế, có
lệnh tuyển chọn người hiền, có học. Ông đã ba lần dâng sớ, trong đó có
bài Thiên Nhân Tam Sách nổi tiếng. Hán Vũ đế đã chấp nhận ý kiến của ông
« Bãi bỏ Bách gia, độc tôn Nho học « . Chính vì vậy mà Vũ đế đã trao
cho ông cầm đầu 50 nhà bác sĩ khác, lo việc làm thế nào để trọng tôn Nho
học, hay nói một cách khác đi là làm thế nào để vẫn giữ trật tự xã hội
cũ, với tiêu đề « Sĩ, nông, công, thương « , bao hàm ý nghĩa « Trên sĩ
vẫn có triều đình để giữ vững và kéo dài muôn thưở chế độ quân chủ «.
Đôi
khi ông thấy Hán Vũ đế quá độc tài, tàn ác, như việc giết và hơn thế
nữa chu di tam tộc những người tướng gửi ra trận mà bị thua, không cần
biết đến lý do. Trong chính sách này, có việc tướng Lý Lăng bị thua
trận, vì những sự đấu đá trong triều đình, có người ghét ông, không tiếp
viện đầy đủ. Tư mà Thiên, truyền thống một gia đình sử gia, đã viết
bênh vực Lý Lăng, làm phật lòng Vũ đế, nên bị tội phải thiến, mặc dầu
đây là tội nhẹ, được Vũ đế thương tình, chứ không là phải chết.
Đổng trọng Thư có lần can dán vua, nên bị bỏ ngục, sau rồi cũng được thả.
Người
ta có thể nói, từ thời Hán Vũ đế, với Đổng trọng Thư, cho tới ngày hôm
nay, trải qua bao triều đại, nước Tàu phần lớn, nếu không muốn nói là
hoàn toàn, đi theo chế độ quân chủ cực quyền, với trật tự xã hội « Sĩ,
nông, công, thương « , với ý thức hệ Nho giáo, lấy Tứ Thư, Ngũ Kinh, Tam
Cương, Ngũ Thường làm căn bản cho chương trình giáo dục và đã biến phần
lớn kẻ sĩ thành những người chỉ biết dùi mài kinh sử, như Đổng trọng
Thư, với chức bác sĩ có nghĩa là nghiên cứu kinh sử, có tính cách lý
thuyết, nhai lại, mất hết tinh thần thực tế, thực tiễn, ý chí sáng tạo
và phê bình.
Ở đây tin xin nói sơ về đạo Nho và đạo Khổng. Có người nghĩ rằng đạo Nho là đạo Khổng. Không hoàn toàn như vậy.
Đạo
Nho có trước đạo Khổng. Chữ Nho, nguyên ngữ là chữ Nhu, có nghĩa là cần
thiết. Đạo Nho có nghĩa là cái đạo cần thiết để con người sống trong xã
hội. Nó có từ thời Tây Chu. Đó là những nguyên tắc căn bản, nói về
tương quan giữa con người và con người, giữa con người và vũ trụ. Chính
vì vậy chúng ta có Tam Cương là ba quan hệ chính : quan hệ giữa vua và
tôi, giữa cha và con, giữa vợ và chồng. Như tôi phải trung thành với
vua, con phải nghe lời cha, vợ phải theo chồng. Ngũ thường, đó là nhân,
nghĩa, lễ, trí tín. Nhân là lòng thương người, mến vật. Nghĩa là hành xử
làm sao để hợp với đạo lý, hợp với lẽ phải. Lễ là cách tỏ vẻ có phép
tắc, cung kính. Trí là sự hiểu biết. Tín là lòng tin cẩn đối với người
khác và giữ sự tin cẩn của người khác đối với mình.
Tứ Thư là 4 bộ sách : Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh Tử.
Ngũ Kinh là : là 5 bộ sách Kinh Dịch, Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ và Kinh Xuân Thu.
Những
bộ sách trên là do Khổng Tử, học trò của Khổng Tử hoặc san định lại,
hoặc viết ra, hay chép lại.Chẳng hạn như chúng ta lấy Kinh Dịch, theo
tương truyền, thì là do Văn Vương đời nhà Chu (1122 – 256 TTL), làm ra,
trong thời gian ông bị vua Trụ nhà Thương (1776 – 1122 TTL) giam ở Dũ
lý. Ông đã bấm độn, coi mai rùa, theo dõi thiên văn, để viết ra Kinh
Dịch. Khổng Tử có nói là ông tiếc rằng không sống đủ lâu để nghiên cứu
kinh này. Ông cũng nói là ông chỉ chép lại những cái gì của đời xưa và
ông lấy hình ảnh Chu công Đán, một công thần nhà Chu làm mẫu người quân
tử, lý tưởng của ông.
Vì
vậy mà đạo Nho khác và có trước đạo Khổng là như thế. Nhưng về sau,
nhất là từ thời Đổng trọng Thư, đã lấy sách vở của Khổng Tử và của học
trò Khổng Tử như Tứ Thư, Ngũ Kinh làm nội dung chính cho chương trình
đào đạo kẻ sĩ, nên người ta lầm cho rằng Nho giáo là Khổng giáo.
Tuy
nhiên ở điểm này chúng ta phải nên nhớ là người ta chỉ lấy những phần
bảo thủ, tôn quân, để làm ý thức hệ chính thức bênh vực chế độ quân chủ,
chứ không lấy những phần có tính cách trọng con người, trọng dân, trọng
dân chủ của Khổng và học trò, như câu chuyện về bà cụ khóc ở ven rừng
vừa kể trên và câu nói của Mạnh Tử : « Dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân
vi khinh « ( Dân là quí nhất, sau đó tới luật pháp và cuối cùng mới
tới quan quyền ).
Như
ngay cả tư tưởng của Khổng, chúng ta thấy nói nhiều tới bổn phận, nhất
là bổn phận của kẻ dưới đối với người trên : bổn phận con đối với cha,
vợ đối với chồng, dân đối với vua, mà không thấy nói đến bổn phận ngược
lại từ trên xuống dưới, nhất là nói đến quyền lợi. Có người nói đến tính
chất bảo thủ và phong kiến của tư tưởng Khổng học là ở chỗ đó.
Tiếp
theo chế độ quân chủ độc tài tập trung, chuyên chế, chính sách giáo dục
từ chương, kinh điển và nhồi sọ, nước Tàu, Việt Nam, ngay cả Nga và
Bắc Hàn lại bị rơi vào chế độ cộng sản, một chế độ quân chủ tập quyền
trá hình, mà thực tế còn tồi tệ, ác ôn, côn đồ và dối trá, chính sách
giáo dục rập theo kinh điển, nhồi sọ, biến phần lớn trí thức trở thành
thấp hèn, hơn cả trăm lần chế độ quân chủ trước đó. Một thí dụ cụ thể,
người ta thường nói đến độc tài của Tần thủy Hoàng trong việc đốt sách
và chôn học trò, nhưng theo những nhà sử gia, thì vào thời đó, có không
đầy 500 học trò bị chôn sống. Trong khi với Mao trạch Đông thì cả triệu
sĩ phu trí thức bị giết; dân chết cả đến 70 triệu người (1).
Có
người bảo rằng nước Tàu ngày hôm nay khác, từ ngày mở cửa với Đặng tiểu
Bình, đã tăng trưởng mạnh, đã trở thành cường quốc thứ nhì trên thế
giới, nếu theo tổng sản lượng quốc gia. Nước Tàu đã trở thành cường quốc
thương mại, đang ở vào thời kỳ văn minh thương mại. Điều đó không hoàn
toàn sai. Nhưng nước Tàu về chính trị vẫn còn là một chế độ độc tài quân
chủ trá hình. Tuy nhiên theo tôi, thì nước Tàu đang chập chững bước vào
thời kỳ văn minh thương mại, kỹ nghệ.
Nhưng
chỉ là một thứ thương mại dơ bẩn, rừng rú, chỉ là cái gì cặn bã của
thương mại, kỹ nghệ ; vì những nhà thương mại của Tàu không độc lập, vẫn
phải dựa vào chính quyền để làm thương mại, vì họ bị ảnh hưởng xấu xa
của tuyên truyền cộng sản, cho rằng là có thể làm bất cứ việc gì, không
kể đạo lý, ngay cả làm hại người khác, đi đến giết người, để làm giàu.
Kỹ nghệ của Tàu hiện nay chỉ là sao chép, không có một tý gì là sáng
kiến, phát minh, sẵn sàng làm hàng giả, hàng nhái, không tôn trọng bản
quyền.
Coi
thường giai tầng thương mại, cho rằng những người làm thương mại không
có đạo đức, chỉ biết kiếm lời. Đây là một điều lầm lớn của những người
cộng sản, bắt đầu bởi Karl Marx. Thực ra về kinh tế, nói một cách giản
tiện chỉ có 2 nhiệm vụ : sản xuất và phân chia sản xuất. Những người làm
thương mại chính là làm nhiệm vụ phân chia sản xuất, thay vì để vào tay
chính quyền, đưa đến sự kiện tham nhũng hối lộ, mà người ta thấy trong
bất cứ một chế độ cộng sản nào.
Ông
tổ của chủ nghĩa tư bản, đó là Adam Smith. (1723 – 1790). Người ta
thường nói nhiều về ông qua quyển sách « Recherches sur la nature et
les causes de la richesse « ( Ngiên cứu về bản chất và nguyên do của sự
giàu có), xuất bản năm 1776, nhấn mạnh về thương mại, trao đổi và sự
phân công, để tăng gia sản xuất; người ta quên đi quyển sách xuất bản
trước đó, mang tên « Théorie des sentiments moraux « ( Lý thuyết về
tình cảm đạo đức ), xuất bản trước đó vào năm 1759, nhấn mạnh đến đạo
đức trong việc hành xử của con người, ngay cả trong lãnh vực thương mại,
dựa lên câu châm ngôn của Tây phương, mà Á châu cũng có. Đó là câu đơn
giản : « Đừng làm điều gì cho người khác mà anh không muốn họ làm cho
anh «. Câu này sau đó cũng đã được những nhà luật học, sọan ra bản Tuyên
Ngôn Nhân Quyền năm 1948, lấy làm kim chỉ nam. Thật vậy, ngay trong
lãnh vực buôn bán, người ta bỏ đồng tiền ra để mua hàng của mình, thì
mình cũng phải biết làm thế nào để không hại người ta.
Ngày
hôm nay ở Việt Nam và Trung cộng thì hoàn toàn ngược lại, phần lớn
những người cộng sản làm thương mại coi thường đạo đức, một nhà buôn có
thể làm bất cứ cái gì ngay cả giết người để kiếm lời. Trường hợp sữa
được sản xuất ở Trung Cộng với chất Mélanine, đầu độc cả trăm ngàn đứa
bé Trung cộng và thế giới, đã nói lên quá đủ tinh thần thương mại rừng
rú, man dại của Tàu và Việt Nam hiện nay.
Nếu
chúng ta nghiên cứu về sự hình thành thương mại và kỹ nghệ của Tây
phương vào đầu thế kỷ thứ 18 tới nay, thì chúng ta thấy những nhà thương
mại và kỹ nghệ của họ rất độc lập, không cần dựa vào chính quyền, và họ
có tinh thần vì người khác. Điển hình là Davison Rockfeller ( 1839 –
1937), ngoài việc là nhà thương mại và kỹ nghệ, ông còn là một mạnh
thường quân, cấp nhiều học bổng, xây dựng nhiều viện nghiên cứu, như
việc xây dựng đại học Chicago, và viện Rockfeller, viện này đã đóng góp
rất nhiều trong lãnh vực nghiên cứu đủ mọi ngành, không những ở Hoa kỳ,
mà cả trên thế giới. Hiện nay chúng ta thấy có Bill Gates. Ông đã giúp
đỡ những trẻ em bệnh tật ở thế giới rất nhiều. Bên Âu châu, nhiều nhà
thương mại và kỹ nghệ khác, nhưng ở đây tôi chỉ nói đến Alfred Krupp
(1812 – 1887), người đã sáng chế ra cách đúc thép hay nhất vào lúc bấy
giờ. Vua nước Phổ, Wilhelm Đệ I, khuyến dụ ông nhiều lần vào giai tầng
quí tộc, nhưng ông từ chối, mặc dù vậy ông vẫn có thể làm giàu và phát
triển không cần phải dựa vào chính quyền như giới thương mại Tàu và Việt
Nam hiện nay.
Người
trí thức, theo định nhĩa nguyên ngữ, là người hiểu biết ( trí) và luôn
thức tỉnh ( thức), trong khi mọi người ngủ. Tuy nhiên họ phải có can đảm
nói lên sự hiểu biết và thức tỉnh của mình. Chế độ quân chủ và ý thức
hệ Nho giáo, ở bên Tàu, đã làm cho trí thức chỉ còn biết cái học từ
chương, không thực tế, qua việc uốn nắn câu văn, dùng những sáo ngữ,
không thực tế, rập khuôn theo những cái gì trước đó, do quyết định của
triều đình. Đó là trí thức nhai lại, học để có bằng cấp, địa vị, không
còn can đảm nói lên sự thật.
Ngay
quan niệm về kẻ sĩ của người xưa, cho rằng khi gặp thời, tức gặp «
minh quân « , thì ra phò vua, giúp dân ; khi không gặp thời, tức sống
dưới thời « bạo chúa« , thì lui về ở ẩn. Quan niệm này nói lên sự hèn
nhát của trí thức, vì chính lúc không gặp thời, vào lúc những bạo chúa
trị vì, người trí thức phải can đảm nói lên sự sáng xuốt của mình, và
can đảm đứng ra cứu dân, giúp nước, trừ bạo chúa, mới phải đạo làm
người. Trí thức của thời quân chủ đã vậy, trí thức của thời cộng sản còn
tệ hơn nhiều; vì độc tài quân chủ chỉ là độc tài cá nhân, hay nhiều lắm
ở triều đình, còn độc tài cộng sản là độc tài đảng trị, đi xuống ngay
cả thôn xóm. Độc tài cộng sản là độc tài toàn diện. Những nhà trí thức
nếu không nói theo những điều mà Bộ Chính Trị và Trung Ương đảng nhả ra,
thì bị trù dập đến chết. Mao trạch Đông đã từng ví « trí thức không giá
trị bằng cục phân. »
Theo
nhà văn hào Anh, Georges Wells, trong quyển « 1984 », tiên đoán sự sụp
đổ của cộng sản vào năm 1984, mà còn nói đến sự độc tài cộng sản, độc
tài gian ác chưa từng có trong lịch sử loài người, vì nó đã biết sử dụng
khoa học để phục vụ độc tài, như việc dùng máy bay trực thăng để nhìn
qua của sổ của dân, để theo dõi đời sống riêng tư, cá nhân của dân.
Quyển sách mang tên 1984 là vì ông tiên đoán sự sụp đổ của cộng sản vào
năm 1984, trên thực tế cộng sản đã sụp đổ vào năm 1989, khi bức tường Bá
Linh sụp đổ. Khoảng cách thời gian từ sự tiên đoán đến thực tế không có
lâu. Cũng trong một quyển sách nổi tiếng khác « Trại súc vật « (The
Animal Farm) , G. Orwells đã ví cộng sản như loài súc vật.
Đúng
như câu trong Kinh thánh, nói về kẻ vô thần, mà ngày hôm nay áp dụng
cho những người cộng sản cũng không sai :« Nó đã tự ru ngủ bằng một lý
thuyết đơn giản, sai lầm và trái với sự thật. Nó đã tự khoác lên người
một bộ áo đạo đức giả ; nhưng bản chất thật của nó thì vô cùng gian
manh, giảo quyệt, ác ôn và côn đồ. Nó đã hạ thấp hình ảnh tốt đẹp và cao
thượng của con người xuống hàng súc vật, rắn rết và bò sát « .
Chính
vì lẽ đó mà ông Medvedev,đương kim Tổng thống Nga, và bà Angela Merkel,
đương kim thủ tướng Đức, đã nói chế độ cộng sản, giới lãnh đạo cộng sản
là một bộ máy sản xuất sự dối trá, lừa bịp và giết người.
Thử
hỏi một quốc gia sống dưới một chế độ như vậy, thì làm sao có thể tiến
bộ, phát triển. Vì vậy nên chế độ quân chủ, ý thức hệ Nho giáo cũng chỉ
là nguyên do xa xôi, còn chế độ cộng sản mới là nguyên do gần và chính
của sự kém phát triển tại những nước như Nga, Trung cộng, Việt Nam và
Bắc Hàn.
Một
thí dự điển hình là chúng ta hãy so sánh Nam Hàn và Bắc Hàn, Singapour,
Đài Loan và Trung cộng. Xa hơn nữa là tình trạng phát triển giữa 2 miền
nam và bắc Việt Nam trước thời 1975.
Những
nước như Nam Hàn, Singapour, Đài loan cũng bị ảnh hưởng sâu đậm bởi Nho
giáo, Khổng giáo và tư tưởng quân chủ; nhưng họ đã biết chấp nhận chế
độ dân chủ, mặc dầu mới đây, không theo chế độ cộng sản, ngày nay họ đã
tiến bộ, phát triển không thua gì các nước tiền tiến Tây phương, Mỹ,
Anh, Pháp, Đức.
Lấy
trường hợp 2 nước Bắc Hàn, theo cộng sản, và Nam Hàn theo chế độ tự do,
dân chủ. Bắc Hàn, diện tích là 120 540km2 ; dân số : 23 909 800 ; tổng
sản lượng 13, 66 tỷ $ ; sản lượng tính theo đầu người hàng năm 571 $,
đứng hàng thứ 207 trên 231 quốc gia. Nam Hàn, diện tích 99 260 km2 ; dân
số : 48 758 000 dân ; tổng sản lượng là 835, 90 tỷ $ ; sản lượng tính
theo đầu người hàng năm 17 144 $, đứng hàng thứ 15 trên 231 quốc gia (Le
nouvel Observateur – Atlaséco 2 011).
Không
nói đâu xa, nói đến Việt Nam chúng ta, trước năm 1975, tình trạng phát
triển của miền Nam không thua gì, mà còn hơn cả Nam Hàn, ở Á châu chỉ có
thua Nhật Bản. Vào năm 1963, cuối thời Đệ Nhất Cộng Hoà, sản lượng tính
theo đầu người hàng năm của miền Nam là trên 80 $ ; trong khi đó của
Đài Loan và của Nam Hàn chỉ mới có 50 $, thời Đệ Nhị Cộng Hòa, miền Nam
cũng hơn cả Nam Hàn và Đài loan. Ngày hôm nay, với sự cai trị của cộng
sản, hơn 36 năm ở miền nam và 57 năm ở miền bắc, giới lãnh đạo cộng sản
đã biến nước Việt Nam thành một trong những nước tụt hậu nhất thế giới,
với sản lượng tính theo đầu người hàng năm là 1 034 $ bằng 1/17 của Nam
Hàn và cũng bằng 1/17 của Đài loan, vì sản lượng tính theo đầu người của
nước này là 17 026 $.
Ngay
cả những nhà kinh tế cộng sản, như ông Lê đăng Doanh, trong một bài
phỏng vấn của đài BBC, đã phải công nhận rằng, sau năm 1975, ông vào
thăm miền Nam, ông đã nhận thấy cơ sở hạ tầng kinh tế miền Nam rất phát
triển, điện nước, máy cày đã xuống tận nông thôn. Người nông dân sống
đầy đủ và thoải mái. Sau đó cộng sản vào, phá hủy tất. Kiểu như nhà văn
Soljennytsine nói : « Cộng sản là một loài đến từ hành tinh khác, với ý
nghĩ và mục đích duy nhất là phá hủy giết hại tất cả những gì thuộc
hành tinh con người «.
Ngày
hôm nay cộng sản Việt Nam nói rằng đổi mới, nhưng thực ra là đã sao
chép những gì đã thực hiện ở miền Nam trước đó. Nhưng sao chép dở và
vụng về vì ngu dốt và vì tham nhũng hối lộ.
Nam
Hàn không thua gì những nước phát triển tân tiến Mỹ, Anh, Pháp. Nền
giáo dục Nam Hàn là một trong những nền giáo dục đứng đầu thế giới. Cách
đây ít lâu, Tổ chức những nước phát triển (OCDE), có làm một cuộc thăm
dò trình độ hiểu biết tổng quát của những người thợ chuyên môn ở những
nước phát triển, cho ta thấy Nam Hàn đứng đầu. Nước Pháp là nước rất
hãnh diện về kỹ thuật xây dựng lò nguyên tử, nghĩ rằng nước Quatar sẽ
chấp nhận hợp đồng cho Pháp xây, thế mà khi ra đấu thầu, Nam Hàn lại
trúng, vì kỹ thuật xây cất không thua Pháp, mà còn rẻ hơn và đúng thời
hạn. Ngành điện thoại cầm tay là ngành kỹ nghệ tân tiến nhất hiện nay,
thế mà trong 3 tháng vừa qua của năm nay, hãng Samsung của Nam Hàn đứng
đầu, bán ra với 27 triệu cái, hãng Appel của Hoa kỳ với 17 triệu, hãng
Nokia của một nước Bắc Âu, thứ 3, với 10 triệu cái.
Tóm
lại, người ta có thể nói nguyên nhân sâu xa của sự tụt hậu, chậm tiến
so với những nước khác của 4 nước Trung Cộng, Nga, Việt Nam và Bắc Hàn,
nhất là của Trung Cộng, Việt Nam và Bắc Hàn là chế độ quân chủ, cái học
kinh điển, nhồi sọ, làm cho Tàu, Việt Nam, Bắc Hàn bị tụt hậu. Nhưng
nguyên nhân chính và gần, đó là chế độ cộng sản, một chế độ quân chủ trá
hình, nhưng tồi tệ hơn nhiều (1).
Đúng
như lời Lý quang Diệu nói : « Tiếc cho những nước như Tàu, Việt Nam,
Bắc Hàn theo cộng sản, nên không thể phát triển mạnh được như chúng
tôi. »
Paris ngày 29/12/2011
Chu chi Nam
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen