Trần Nhật Kim
Chúng tôi quyết định về thăm nhà khi cô em tôi cho hay sức khoẻ
không mấy khả quan của mẹ tôi.
Tôi lấy vé đi Hà Nội bằng chuyến bay của hãng Hàng Không
Cathay Pacific theo lộ trình: khởi hành từ Thủ đô
Hoa Thịnh Đốn (Washington DC) tới phi trường Frankfurst
(Đức). Sau một giờ đồng hồ chờ tại phòng đợi của sân bay,
chúng tôi bay tiếp tới Hong Kong. Từ Hong Kong chúng tôi đổi
chuyến bay đi Hà Nội và sau đó lấy chuyến bay đi Saigon.
*
Chúng tôi ghé phi trường Hong Kong đã 6 tiếng đồng hồ để chờ chuyến
bay đi Hà Nội. Theo thống kê, phi trường Hong Kong là một
trong những phi trường bận rộn nhất thế giới, cách 7 phút lại có
một chuyến bay cất cánh. Thành phố này vừa trả lại cho Trung
Hoa vào giữa đêm ngày 1 tháng 7 năm 1997, mới cách đây 5 tháng.
Trước thời gian đổi chủ, nhà nước Trung Hoa cộng sản đã đoan chắc
vùng đất này sẽ được hưởng quy chế “một quốc gia có hai chế độ hành
chánh riêng biệt”. Nhưng giờ phút này, người dân Hong Kong
vẫn không mấy tin tưởng vào lời hứa của chế độ mới, mà cách đây
không lâu, khu vực này được mệnh danh là một nơi có đời
sống lý tưởng nhất. Trục nối Hong Kong – Saigon – Singapore
đã mang đến cho những vùng đất này một sự phát triển đặc biệt
cả về kinh tế và văn hóa.
Theo tài liệu về Hong Kong, Jorge A1lvares, người Bồ Đào
Nha đầu tiên đến khu vực Hong Kong năm 1513.
Sau đó các thương gia Bồ Đào Nha bắt đầu tới buôn bán ở miền Nam
Trung Hoa và xây dựng công sự tại Đồn Môn. Do các
cuộc xung đột quân sự giữa Trung Hoa và Bồ Đào Nha, khiến người Bồ
Đào Nha bị trục xuất. Năm 1685, vua Khang Hy cho mở cửa giao
dịch hạn chế với người ngoại quốc bắt đầu từ Quảng Châu.
Năm 1839, chiến tranh Nha Phiến xẩy ra giữa Đại Thanh và Anh
quốc. Đảo Hong Kong bị Anh chiếm vào ngày 20-1-1841và
theo thỏa ước Xuyên Tị để thực hiện cuộc ngưng bắn, Trung Hoa
đã nhượng Hong Kong cho nước Anh. Đến
ngày 29-8-1842, Hong Kong mới chính thức nhượng cho nước Anh
theo điều ước Nam Kinh.
Dưới sự cai trị của người Anh, dân số Hong Kong từ 7.450 người Hán
vào năm 1841,đã nhanh chóng tăng lên 115.000 người Hán và 8.754
người Âu vào năm 1870. Năm 1898, theo các điều
khoản của Hiệp định, nước Anh được quyền thuê đảo Lạn Đầu trong
vòng 99 năm. Từ đó lãnh thổ Hong Kong không thay đổi, với
diện tích 1.103 Km2.
Chiến tranh Thế giới lần thứ II xẩy ra. Nhật chiếm Hong
Kong ngày 8-12-1941. Các lực lượng bảo hộ của Anh và Canada
phải giao quyền kiểm soát Hong Kong cho Nhật vào ngày 25-12-1941.
Dưới quyền kiểm soát của Nhật, nạn đói hoành hành vì thiếu
lương thực. Sau khi Nhật bại trận năm 1945, dân số
Hong Kong chỉ còn 600.000 người.
Sau Thế chiến II, kinh tế Hong Kong phát triển nhanh chóng.
Người Trung quốc rời khỏi lục địa xin tị nạn tại Hong Kong để
tránh nội chiến đang xẩy ra. Sau khi Trung quốc trở thành
Cộng hòa Nhân dân Trung hoa vào năm 1949, nhiều người dân lục địa
nhập cư Hong Kong vì sợ Trung cộng ngược đãi.
Việc chuyển giao chủ quyền Hong Kong cho Trung quốc được thực hiện
vào giữa đêm ngày 1 tháng 7 năm 1997. Khoảng 10% dân số Hong
Kong đã di dân tới các quốc gia khác trước ngày trao trả vì
không muốn sống dưới chế độ cộng sản.
Sau thời gian đổi chủ, người Hong Kong vẫn quen với nếp sống cũ, do
ảnh hưởng sâu đậm của 99 năm trong không khí tự do dân chủ, họ
không chịu gò bó dưới sự khắc nghiệt của chế độ cộng sản.
Đảng và nhà nước CS Trung hoa phải miễn cưỡng để người dân
Hong Kong sống theo ý họ. Vì đây là cửa ngõ kinh tế giao tiếp
với các nước trên thế giới. Nó sẽ vực dậy một nước Trung hoa
nghèo đói hay sẽ là một ngòi nổ lảm suy sụp chế độ cộng sản của
quốc gia này.
Thiên An Môn vẫn là một ám ảnh đe dọa cho nếp sống vốn êm đềm
ở đây, mà cách đây không lâu, hàng ngàn người tay cầm nến thắp sáng
các con phố, bước âm thầm trong bóng đêm, để tưởng nhớ các tấm
gương kiêu hùng đã gục ngã trước lằn đạn, dưới lớp xích sắt của
đoàn xe thiết giáp tại quảng trường Thiên An Môn ngày nào.
Những hành động này chứng tỏ sự quyết tâm cho khát vọng tự do dân
chủ, mà cũng là lời cảnh cáo của người dân Hong Kong đối với chế độ
cộng sản.
*
Đến giờ khởi hành, hành khách lần lượt lên tầu…
Tôi yên lòng khi rời Hong Kong trên chiếc máy bay Air Bus
trông còn mới của hãng Hàng Không Việt Nam, ít nhiều khác với tâm
trạng của tôi khi xa Sài Gòn vào năm 1984, trên chiếc máy bay “TU”
sản xuất tại Nga Sô, đường bay Sài Gòn – Bangkok.
Mọi người đã yên vị. Phi cơ rời phi đạo, bay cao mãi, để
lại phi trường Hong Kong nhỏ dần như một miệng giếng nằm gọn giữa
rừng cao ốc chọc trời đang lẫn trong màn sương buổi sáng. Xa
xa chân trời vừa ửng hồng, ánh vàng đang đổi mầu bóng đêm.
Tôi nghĩ đến thời gian sắp tới, liệu có gì xẩy ra cho tôi
không. Thân nhân tôi cho hay không có gì phải lo ngại, nhưng
những việc xẩy ra ở đây, theo những người mới ra đi cho hay, khiến
tôi khó yên tâm. Tôi ở miền Bắc gần chục năm từ sau ngày 30
tháng 4 đen tối, đã di chuyển bất kể ngày đêm, từ trại tù này đến
trại cải tạo khác, từ vùng Châu thổ sông Hồng đến miền núi rừng
Việt Bắc. Vừa chán vừa sợ nên tôi không muốn trở lại những
nơi đó nữa.
Nhiều người lên tiếng phản đối nhà nước cộng sản Việt Nam về chính
sách hai quốc tịch của người Việt đã nhập quốc tịch của quốc
gia khác. Nếu vì lý do nào đó nhà nước CS muốn giữ lại, những
người này được coi là người Việt vì quốc tịch gốc vẫn còn. Do
đó, dù mang nặng tình cảm quyến luyến gia đình sau nhiều năm xa xứ,
những người muốn về thăm quê vẫn ngần ngại, vì luật pháp của chế độ
này thay đổi bất chợt.
Đặc biệt hơn nữa, những người có dự phần vào các hoạt động ở
hải ngoại, như đòi dân chủ tự do cho người Việt trong nước, được
cấp thông hành về thăm quê, nhưng khi đến phi trường Nội Bài của
miền bắc hay Tân Sơn Nhất tại miền Nam, một số đã bị giữ lại.
Nếu may mắn, sau một đêm ngụ tại khách sạn phi trường, ngày hôm sau
bị đưa lên máy bay trở về nước cư trú. Trong trường hợp khác,
thời gian ở phi trường sẽ kéo dài cho đến ngày hết hạn, đã
gây thiệt hại cho người về thăm quê. Nhà nước cho
hay họ thuộc thành phần tham gia các hoạt động gây bất lợi
cho chế độ cộng sản.
Nhiều người có nhận xét, nếu biết họ là thành phần gây bất lợi cho
chế độ, Tòa Đại sứ tại các quốc gia liên hệ, nên từ chối cấp giấy
thông hành, vừa tránh thiệt hại vô lý cho người về thăm quê, mà
cũng che dấu được phần nào bản chất vô luật pháp, trống
đánh xuôi kèn thổi ngược của chế độ CS Hà Nội.
*
Trở lại chuyện cũ…
Tôi mừng rỡ khi thoát khỏi phòng cách ly của phi trường Tân Sơn
Nhất vào năm 1984. Lòng tôi lâng lâng, cảm thấy không khí bên
ngoài thoáng hơn không khí ngột ngạt ở trong kia, như trút bỏ được
một phần gánh nặng, như tôi có cảm giác bước ra khỏi cổng trại tù
cải tạo, dù rằng vào lúc đó, tôi mang cảm
giác vừa thoát khỏi trại tù nhỏ để bước vào một trại tù lớn
hơn, một nơi có vợ con tôi đang sống. Tôi đang trốn chạy khỏi
quê hương yêu dấu của tôi để đến một nơi xa lạ, mà mọi người ở đây
gọi đó là “Miền đất hứa.” Vợ chồng tôi nắm tay các con tôi
theo đoàn người lên tầu. Hành trang của chúng tôi
nhẹ tênh. Vì còn có gì để mà mang theo.
Hành khách đã yên vị. Động cơ được khởi động trước khi khởi
hành. Tôi mong máy bay cất cánh càng sớm càng tốt, như mang
nỗi sợ của cánh chim trên cành cây cong. Tôi hổ thẹn khi có ý
nghĩ coi đây là một vùng đất nguy hiểm, đầy đe dọa bất trắc, mà
không lâu trước đây, tại vùng đất thân yêu này, tôi đã sống những
ngày vô cùng hạnh phúc. Tôi cảm thấy quá ích kỷ, vì
trong giây phút chỉ nghĩ tới an nguy của cá nhân mình, mà quên đi
số phận hẩm hiu của những người còn ở lại.
Bất chợt từ máy phóng thanh, một âm thanh giọng nữ nghe thật ấm
dịu: “Xin hành khách có tên Nguyễn Văn Ba đến phòng hải quan
có việc cần”. Một người đàn ông trạc tuổi tôi, vẻ mặt ngơ
ngác, mang theo túi xách tay bước ra khỏi tầu. Khi máy bay
cất cánh vẫn không thấy vị khách ấy trở lại.
Trán tôi đổ mồ hôi khi nghe máy gọi. Vợ tôi lặng lẽ nắm tay
tôi thầm chia xẻ với tôi niềm ưu tư lo lắng. Trước khi
đi tôi đã nghe nhiều chuyện như thế này. Những vụ vì không
biết phải trái với địa phương, người ra đi bị giữ lại sau khi hoàn
tất thủ tục lên tầu.
Về phần tôi, khi từ trại tù cải tạo trở về, tôi luôn sống trong
cảnh phập phồng lo sợ. Đám công an khu vực vẫn theo rõi, quan
sát tôi từng bước không kể hàng tháng phải trình diện phường khóm,
và hàng tuần phải có mặt tại các buổi họp khu phố để nghe đọc
về thành quả cách mạng dưới tài lãnh đạo ưu việt của đảng và nhà
nước CS. Tôi nghe đã chán tai, vì đây là những thứ đã
được lập lại như một máy thu băng dưới tên “học tập”, nên trong
suốt thời gian dài tại các trại tù cải tạo, tôi không có lấy một
chữ vào đầu. Tôi phải có mặt các buổi học tập tại quận không
ngoài mục đích điểm danh, vì nhân số mỗi ngày một ít do tình trạng
vượt biên hay bị bắt trở lại trại tù cải tạo. Tôi có cảm
tưởng mình đang sống trong một nhà tù, chỉ khác trại cải tạo ở chỗ
tôi được gần gũi gia đình.
Khi có giấy xuất cảnh tôi cũng chẳng được yên thân, vì trước ngày
đi sở công an thành phố có gửi “giấy mời làm
việc”. Tôi không quên lời người công an nhấn mạnh nhiều lần:
“Tôi lưu ý anh sang Mỹ đừng ồn ào. Anh nhớ còn thân nhân
ở đây…” Gia đình tôi cả đêm với một ngày lo lắng khi tôi nhận
được giấy mời. Tôi hiểu luật pháp bây giờ là thế, quyền sống
con người ở đất nước này là thế và ý nghĩa “Tự Do” dưới chế
độ này là thế…
*
Quay sang nhà tôi, nàng tựa sát ghế ngồi, nhắm mắt như cố
dỗ giấc ngủ sau thời gian dài vất vả đợi chờ tại phi trường,
cũng như lo âu cho thời gian sắp tới.
Tôi lơ đãng nhìn qua khung cửa kính, ngoài trời nắng đã chan hòa,
những giải mây trắng ngần như tấm thảm bông bồng bềnh lót dưới
thân tầu. Tôi chợt mỉm cười, hình ảnh Hà Nội gợi nhớ
trong tâm tư của tôi cả một thời tuổi trẻ, ở tuổi khi vừa biết yêu,
bị “mê hoặc” bởi vẻ đẹp và giọng nói ngọt lịm của người con
gái Bắc Hà. Có người cho rằng, người con gái Hà Nội có
vẻ kênh kiệu, bề ngoài trong giao tiếp. Nhưng thực ra, đó chỉ
là do ảnh hưởng của giáo dục gia đình về công, dung, ngôn, hạnh đã
trở thành một nếp sống. Vì vậy, người con gái Hà Nội dịu dàng
nhưng ý tứ, ánh mắt thân mật nhưng không sàm sỡ, tế nhị nhưng không
gò bó trong cách giao tiếp hàng ngày.
Nét đẹp đặc biệt ấy của người con gái Hà Nội như được thiên nhiên
ưu đãi thêm sắc hương diễm lệ. Nhất là vào mùa Xuân, mưa phùn
giăng kín bầu trời như làn lụa mỏng đã tạo cho Hà Nội không
khí ấm cúng, gần gũi và điểm tô cho người con gái Hà Nội nét óng ả
vui tươi. Mưa nhẹ như những hạt bông bám trên mái tóc mây óng
ả, vương trên bờ vai thon nhỏ, lăn dài trên các tà áo mầu…Mưa không
thấm ướt đôi má, không làm hoen mầu son trên môi, chỉ lấp lánh trên
rèm mi như những hạt châu muôn sắc.
Tôi không biết danh từ mưa phùn có từ bao giờ, diễn tả động tác
nào, hay đó chỉ là những hạt nước nhỏ li ti, đan quyện vào nhau tạo
thành một tấm màn mỏng như khói sương buổi sớm, phủ mờ Tháp Rùa và
những tàng cây xung quanh hồ, tạo thành một bức tranh thủy mạc
thiên nhiên mờ ảo. Vừa mang nét cổ kính, vừa đượm vẻ thơ mộng
hữu tình.
Mưa phùn đẹp thật, nhất là mưa phùn trên thành phố Hà
Nội. Những hạt mưa bé nhỏ mỏng manh đã làm xanh các chồi
nhánh, làm mơn mởn các cánh hoa đào, làm lòng người thêm phấn khởi
vào dịp Xuân về.
Người Hà Nội tự hào về nét thanh lịch trong nếp sống, qua lời ăn
tiếng nói với ngôn ngữ chính xác, mẫu mực, không quen dùng danh từ
thô tục. Luôn nhún mình, mềm mỏng mà không khoe khoang, biết
tôn trọng mọi người.
Dù sau nhiều thăng trầm biến đổi, dù dưới bất cứ hoàn cảnh nào,
người Hà Nội vẫn giữ được nét hào hoa phong nhã. Điểm đặc
biệt này được ca ngợi qua ca dao:
“Chẳng thơm cũng thể hoa nhài,
Dẫu chưa thanh
lịch cũng người Tràng An.”
Hà Nội có nhiều di tích cổ xưa. Theo truyền thuyết, năm 1009,
khi Thái Tổ Lý Công Uẩn đi ngang qua thành Đại La, thấy nơi
chân thành có một đám mây hình con rồng bay lên, Vua cho là điềm
báo tốt nên đã dời đô về Đại La và cho đổi tên là thành Thăng Long
vào năm 1010.
Vào đời nhà Trần, Thăng Long vẫn được tiếp tục mở rộng và phát
triển. Đến đời nhà Nguyễn, Vua Minh Mạng thứ 13 cho thành lập
Tỉnh Hà Nội vào năm 1931. Tỉnh Hà Nội gồm 4 phủ: Hoài Đức,
Ứng Hòa, Lý Nhân và Thường Tín. Tỉnh lỵ là thành Thăng Long
cũ. Ngày 1-10-1888, Vua Đồng Khánh ra đạo dụ nhượng cho Pháp
thành phố Hà Nội. Sau Hiệp Ước Patenotre, Tổng Thống
Pháp, Sadi Carnot, ra sắc lệnh thành lập thành phố Hà
Nội. Năm 1902 Hà Nội là Thủ phủ của Liên Bang Đông Dương (Bắc
Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Lào và Mên).
Hà Nội nằm dọc theo hữu ngạn sông Hồng, còn gọi là Nhị Hà, vì trước
khi tới Hà Nội sông Hồng tách ra một nhánh nhỏ chẩy tới tỉnh Hải
Dương mang tên sông Đuống. Từ đây, Hà Nội ngày một mở mang,
trong đó phải kể tới khu “phố Cổ Hà Nội”, xây dựng từ cuối thế kỷ
XIX sang nửa thế kỷ XX. Hà Nội trở lên sầm uất hơn, trung tâm
thành phố được mở rộng. Các ao, hồ, đầm dần dần bị lấp kín để
phát triển thành phố, hầu đáp ứng dân số ngày một gia tăng.
“Hà Nội ba mươi sáu phố phường” là biểu tượng của khu phố Cổ, được
giới hạn về phía Bắc bởi đường Hàng Đậu, phía Tây là đường Phùng
Hưng, phiá Đông là đường Trần Nhật Duật và đường Trần Quang Khải,
phía Nam là đường Hàng Bông, Hàng Gai, Cầu Gỗ và Hàng Thùng. Khi
xưa, “khu vực 36 phố phường” có nhiều ao hồ. Khu này được bao
bọc bởi sông Tô Lịch ở phía Bắc, sông Hồng ở phía Đông và Hồ Hoàn
Kiếm ở phía Nam. Vào thế kỷ XV, khu Kinh Thành Thăng Long gọi
là Phủ Trung Đô gồm 2 huyện với tổng số 36 phường.
Theo sử cũ, vào thời Nhà Lê, Thăng Long còn gọi là Phủ Phụng Thiên
gồm hai huyện Vĩnh Xương (sau đổi ra Thọ Xương) và Quảng Đức (sau
đổi ra Vĩnh Thuận). Mỗi huyện có 18 Phường. Phường là
tổ chức theo nghề nghiệp, chỉ dùng riêng cho kinh thành Thăng Long,
tương đương với Xã của nông thôn.
“Phố” khác với Phường. Phường là một khu vực hành chánh, còn
Phố là một chỗ bán hàng, nơi bầy hàng, (cũng có nghĩa là cửa hàng
cửa hiệu), nằm sát nhau thành một dẫy.
“Hàng” chỉ là tên gọi của các cửa hiệu bầy bán một mặt hàng giống
nhau nằm sát nhau trong một khu phố (Hàng đào, Hàng đường…)
Sau bao nhiêu thay đổi, có nhiều phố nguyên là tên Hàng đã mang tên
mới như: Hàng Cỏ đổi thành phố Trần Hưng Đạo, Hàng Đẫy là Nguyễn
Thái Học…
Sau khi Pháp chiếm Hà Nội, khu Phố Cổ có nhiều thay đổi, các con
đường được chỉnh trang , có hệ thống thoát nước, nhà cửa hai bên
đường được xây gạch, lợp ngói. Mở mang các khu buôn bán như
chợ Đồng Xuân…Kể từ năm 1945 đến 1985, nhiều gia đình từ chiến khu
trở về được cư ngụ tại Phố Cổ. Mỗi căn nhà có hai, ba gia
đình. Nhân số trong mỗi gia đình cũng tăng, khiến Phổ
Cổ ngày càng đông. Kể từ năm 1960 đến1983, khu Phố Cổ vốn là
nơi buôn bán sầm uất trước kia, đã trở thành khu dân cư thuộc các
gia đình cán bộ.
Như vậy, chỉ “Kinh Thành Thăng Long” thời Nhà Lê mới có 36
Phường. Còn “Hà Nội 36 Phố Phường” mà chúng ta gọi hiện tại
chỉ là một danh xưng không có trong thực tế.
Trong tác phẩm “Việt Nam thi văn hợp tuyển” của ông Dương Quảng Hàm
có ghi những câu ca dao về 36 phố ở Hà Nội:
Rủ nhau chơi khắp Long thành
Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai:
Phố Mới, Phúc Kiến, hàng Ngang,
Quanh đi đến phố hàng Da,
Trải xem hàng phố, thật là cũng xinh.
Phồn hoa thứ nhất Long thành,
Phố giăng mắc cửi, đường quanh bàn cờ.
Người về nhớ cảnh ngẩn ngơ,
Bút hoa xin chép vần thơ lưu truyền.
Những Đền đài Lăng miếu có từ thời dựng nước, khiến hình ảnh của Hà
Nội đã đậm nét trong tâm tư mỗi người, nhất là Hồ Hoàn Kiếm với
Tháp Rùa.
Về địa lý, Hồ Hoàn Kiếm nằm theo hướng Bắc Nam, song song với sông
Hồng và cách sông Hồng gần một cây số. Theo sử lược, tên gọi
Hoàn Kiếm xuất hiện từ Thế kỷ 15 với truyền thuyết Vua Lê Thái Tổ
trả lại gươm báu cho Rùa thần. Theo bản đồ thời Hồng Đức, Hồ
Hoàn Kiếm là một phân lưu của sông Hồng chẩy qua vị trí các phố
Hàng Đào, Hai Bà Trưng, Lý Thường kiệt, Hàng Chuối trước khi chẩy
vào nhánh chính của sông Hồng.
Đến thời Lê Trung Hưng, Thế kỷ 16, Chúa Trịnh cho chỉnh trang Hoàng
thành Thăng Long. Chúa Trịnh cho ngăn hồ lớn thành hồ Tả Vọng
và Hữu Vọng dùng làm nơi duyệt quân thủy chiến. Đến đời Tự
Đức (1847-1883), hồ Hữu Vọng được gọi là hồ Thủy quân, còn hồ Hữu
Vọng là hồ Hoàn Kiếm. Năm 1884, chính quyền Bảo Hộ Pháp cho
lấp hồ Thủy quân để mở mang Hà Nội.
Ngoài Tháp Rùa nằm ở trung tâm của hồ Hoàn Kiếm, được xây dựng vào
khoảng giữa năm 1884 đến tháng 6-1886, còn có các di tích khác bao
quanh hồ như:
Đền Ngọc Sơn và Cầu Thê Húc (1) nằm về phía Bắc, do nhà từ thiện
tên Tín Trai lập ra nằm trên nền cung Thụy Khánh. Đền Ngọc
Sơn có tên là Tượng Nhĩ, sau đó vua Lý Thái Tổ đặt tên là Ngọc
Tượng. Đền Ngọc sơn thờ thần Văn Xương, hiện thân của văn
chương, khoa cử. Đền cũng thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo,vị anh
hùng của dân tộc.
Ngoài Đền Ngọc Sơn còn có nhiều nơi mang dấu ấn lịch sử, trong đó
phải kể là Cầu Thê Húc xây dựng năm 1865, mang ý nghĩa “một nơi
chan hòa ánh sáng mặt trời buổi sáng”. Kế đến là “Tháp Bút”
gồm 5 tầng xây dựng vào năm 1865, nằm về hướng Đông Bắc của
hồ. Trên đỉnh tượng trưng cho một ngòi bút hướng lên
trời. Phần thân tháp có khắc 3 chữ “Tả Thanh Thiên” (viết lên
trời xanh). Tầng thứ ba có khắc bài “Tháp Bút Chí”. Gần
Tháp Bút có “Đài Nghiên” cũng được xây dựng cùng thời với Tháp
Bút. Ba chân kê Nghiên là hình tượng ba con cóc. Trên
thân Nghiên có khắc một bài “Minh”, gồm 64 chữ Hán.
Trên bờ phía Đông của hồ có “Tháp Hòa Phong”, là di vật còn lại của
chùa “Báo Ân” (Chùa bị phá bỏ vào năm 1898). Tháp gồm ba
tầng, các cửa hướng về bốn phía Đông, Tây, Nam, Bắc. Mỗi cửa
đều có ghi: Báo Đức môn, Báo Ân môn, Hòa Phong tháp và Báo Thiên
tháp. Tầng tháp dưới đáy cao và lớn hơn hai tầng trên.
Bốn mặt của tầng thứ hai có hình Bát quái. Tầng ngọn Tháp có
chữ “Hòa Phong Tháp.”
Trên bờ phía Đông Bắc của hồ có Đền Bà Kiệu xây dựng từ thời Lê
Trung Hưng. Do việc mở đường nên Đền chia làm hai: Tam quan ở
sát bờ hồ, còn Đền nằm phía bên kia con đường. Đền Bà Kiệu
thờ ba vị nữ thần: Liễn Hạnh Công Chúa, Đệ Nhị Ngọc Nữ và Đệ Tam
Ngọc Nữ.
Về bờ phía Tây có Đền thờ vua Lê, sát với đình Nam Hương.
Tượng Vua Lê đứng trên bệ cao, tay cầm kiếm như phóng xuống hồ.
Các di tích lịch sử ấy đã tạo cho Hà Nội nét hào hùng, giữ được bản
chất dân tộc Việt sau hàng ngàn năm bị đô hộ, đồng hóa. Những
hình ảnh này luôn nhắc nhở con dân nước Việt phải một lòng bảo toàn
đất Tổ trước họa ngoại xâm.
Phong cách và nếp sống hài hòa của người dân, đã mang đến cho Hà
Nội một sắc thái riêng biệt. Từ nét đặc biệt của giọng nói ấy
đã toát ra những âm điệu trong sáng mà thanh tao, nhẹ nhàng mà
quyến rũ. Mà chỉ những ai sinh ra và lớn lên tại thành phố
này mới giữ được âm hưởng đó, tiếp nối kế thừa như một dòng chảy từ
nhiều đời trước. Sau những biến chuyển của xã hội vào năm
1954, “Tiếng Hà Nội” đã theo bước chân người Hà Nội dàn trải tới
các nơi trên thế giới. Mặc dù xa quê hương, nhưng người con
Hà Nội vẫn giữ được phong thái cũ.
Như vậy, do phong thổ và mạch nước uống đã tạo cho Hà Nội nét đặc
biệt trong giọng nói “Thành thị” khác hẳn với các vùng khác, dù ở
sát bên. Theo lịch sử, “kinh thành Thăng Long” là vượng địa,
được Vua Lý Thái Tổ dời đô về đây vào năm 1009. Một vùng đất
bao bọc bởi 3 con sông: sông Hồng ở phía Đông, sông Tô Lịch ở phía
Bắc và sông Kim Ngưu ở phía Nam.
Sông Kim Ngưu ít khi được nhắc tới, trước kia là một phân lưu của
sông Tô Lịch, từ Ô Cầu Giấy chảy theo hướng Tây-Đông tới Đội Cấn,
khi tới Ô Thụy Chương (Thụy Khê) chảy theo hướng Bắc Nam, chảy qua
Ngọc Khánh, Giảng Võ, Hào Nam, Ô Chợ Dừa, Xã Đàn, Kim Liên, Ô Cầu
Dền, Ô Đông Mác, Yên Sở rồi hợp lưu trở lại. (2)
Nhiều người thiết tha với Hà Nội đã phải lên tiếng vì sự thay đổi
trong giọng nói của Người Hà Nội bây giờ.
Đành rằng, Hà Nội là vùng đất của dân tứ chiếng, nơi kết hợp sắc
thái của mọi thành phần dân chúng tới vùng đất này sinh sống, là
nơi hội tụ văn hóa, đã tạo cho Hà Nội nét đặc biệt về ngôn
ngữ. Giọng nói của Hà Nội vẫn không thay đổi dù 1.000 năm bị
Tầu đô hộ và 100 năm dưới sự thống trị của Thực dân Pháp.
Bản chất của ngôn ngữ luôn gắn liền với hiện tượng xã hội.
Theo thống kê, vào thập niên 1940, dân số thành phố Hà Nội là
132.145 người. Nhưng đến năm 1954, khi Việt Minh tiếp quản Hà
Nội, dân số thành phố giảm xuống chỉ còn 53.000 người trên một diện
tích 152 Km2. Đến năm 1961, thành phố được mở rộng diện tích
lên tới 584 Km2 với dân số 91.000 người.
Nhìn vào con số sai biệt về dân số trên, chúng ta nhận ra vào
thời điểm này, nhiều người đã rời Hà Nội ra ngoại quốc hay theo
đoàn người di cư vào miền Nam sau ngày chia đôi đất nước, khiến
người Hà Nội gốc không còn nhiều như trước. Những người Hà
Nội vì nặng gánh gia đình còn ở lại, dù đã từng tham gia Việt Minh,
cũng đành ngậm miệng trước bạo lực để sống vì họ thuộc thành phần
trí thức tư sản, không được trọng dụng khi “cách mạng” thành công.
Nhưng đó có phải là lý do chính để mất giọng Hà Nội? Hay vào
thời gian này số gia đình cán bộ từ các tỉnh Thanh-Nghệ đã nhập cư
Hà Nội, nhận nhiệm vụ giáo dục lớp trẻ, uốn nắn cả tinh thần lẫn
nếp sống mới, nên giọng Hà Nội đã biến đổi, không còn như
trước kia.
Hình ảnh của Hà Nội níu kéo tôi mãi trong suốt 20 năm xa cách, từ
ngày đất nước chia đôi năm 1954 đến ngày miền Nam bị chiếm
đoạt vào ngày 30-4-1975. Những kỷ niệm, những thắng cảnh đậm
nét trong lòng người Hà Nội, thấm đượm trong tâm hồn mỗi người đã
từng sống, đã lớn lên ở vùng đất yêu thương này. Tôi ấp ủ nét
đẹp Hà Nội thanh bình, một nếp sống hài hòa của thời niên thiếu,
được điểm tô qua áng văn của Nguyễn Tuân, của Thạch Lam trong Tự
Văn Đoàn.
Hà Nội với vóc dáng cổ xưa trở lên duyên dáng, dù các con phố có
nhỏ hẹp, nhưng tự nó có trật tự và điểm tô bằng thứ tình cảm gần
gũi, ấm cúng mà phải ở một thời gian đủ lâu mới tìm thấy cái cảm
giác yêu thương, quen thuộc không thể thiếu đó. Vì thế, đi xa
vẫn nhớ.
Tôi chợt nhớ tới thiên phóng sự “Một ngày ở Hà Nội” của Thiếu Tá
Phạm Huấn, một nhà báo quân đội kỳ cựu của VNCH, đã cùng Thiếu Tá
Đinh Công Chất và Thiếu Úy Dương Phục, thành viên của Ban Liên hợp
quân sự 4 bên, đã “ghé thăm” Hà Nội nhân dịp quan sát vụ trao trả
tù binh Mỹ vào ngày 18-2-1973. Hành trình của cuộc “viếng
thăm” này và những gì “mắt thấy tai nghe” đã được Đài Saigon truyền
đi vào tối ngày 19-2-1973.
Trong buổi mạn đàm, Thiếu Tá Phạm Huấn tâm sự, đối với những người
khác thì trong chuyến đi này người ta có thể nói là ra Bắc hay ra
Hà Nội, nhưng đối với ông, một người từng sống ở Hà Nội nhiều năm,
thì gọi đó là một chuyến trở về Hà Nội. Ông cho hay, những
đường phố chính mà trước kia rất sang trọng như đường Trần Hưng
Đạo, Lý Thường Kiệt, Gia Long, Tràng Tiền, khu chung quanh hồ Hoàn
Kiếm…thì còn nguyên vẹn, nhưng còn các phố khác của thủ đô Hà Nội
bây giờ tiêu điều xơ xác quá. Không có một kiến trúc nào đặc
biệt so với năm 1954. Hà Nội trông tiêu điều, nhưng không ngờ
sự thay đổi đến quá sức tưởng tượng như ông nghĩ.
Khu trung tâm thành phố như Gia Long, Tràng Tiền…nhà cửa trông rất
cũ kỹ, như đã 10, 15 năm không được quét vôi lại. Cầu Thê Húc
không có mầu sắc gì, cũ kỹ theo thời gian. Điểm nổi bật
nhất ở hồ Hoàn kiếm không phải là Tháp Rùa mà là tấm bảng lớn sơn
mầu đỏ chót với khẩu hiệu tuyên truyền…
Tôi miên man suy nghĩ, liệu những gì còn được giữ lại của một
Hà Nội ngày xưa, một Hà Nội chưa bị đổi đời.
*
Tiếng cô tiếp viên kéo tôi trở lại thực tế. Nhà tôi thức
giấc. Chúng tôi cài giây an tòan, chỉ còn mươi phút nữa
là tới sân bay Nội Bài, cách Hà Nội 40 cây số. Máy bay hạ
cánh thấp dần. Nhà tôi nghiêng người gần ô cửa kính.
Khung cảnh phía dưới mỗi lúc một rõ qua làn khói mỏng. Giòng
sông Hồng hiện ra một mầu nâu tía, giống như con trăn khổng lồ uốn
khúc giữa vùng cây cỏ.
Tiếng bánh xe rít lên khi chạm đường băng…
Bước ra khỏi khoang tầu, đứng trên đầu thang xuống, tôi dừng lại
giây phút, hít hơi dài không khí, thứ không khí trong lành mát rượi
của quê hương, như lưu luyến thuở xưa đang vội vã trở về. Tôi
vẫn mong có ngày hôm nay và ao ước trở về nhìn
lại mảnh đất thân yêu này. Lòng tôi háo hức như những thủy
thủ xa nhà, gửi nụ hôn trên cát khi trở về bến cũ, mà năm tháng vừa
qua nơi đất khách quê người, dù chăn ấm nệm êm, dù nhà cao cửa
rộng, tôi vẫn cảm thấy tha phương, lạc lõng trong một xã hội xa lạ
với mình.
Hành khách bước vào phòng Hải quan dành cho khách nước ngoài.
Tôi gặp lại “mầu áo vàng” với nhiều kỷ niệm cay đắng xa xưa.
Những giây người xếp hàng một trước bàn cán bộ để làm thủ tục
nhập cảnh. Vợ chồng tôi vào sau nên đứng gần cuối hàng.
Bất chợt, người cán bộ đường giây bên cạnh đứng bật dậy, lớn tiếng
chỉ tay về những người cuối hàng đang nói chuyện. Mấy
người ngoại quốc ngơ ngác, tỏ ý phàn nàn về hành động không
mấy đẹp của nhân viên nhà nước, không giống phong thái “Customer
No.1″ của xã hội tự do.
Đây có phải là hậu quả của thời Cải cách, dẹp bỏ Hương Ước xóm
làng, truyền thống sau lũy tre xanh, mà thành phần “chân lấm tay
bùn” một sớm một chiều vươn lên theo tiếng loa gọi, để tự hào là
“Đỉnh cao trí tuệ loài người”, tự xưng là “Anh hùng” bởi súng đạn
của nước ngoài. Tôi trở lại ý nghĩ “yên lòng” mà thân nhân
nhắn nhủ trước khi chúng tôi về. Đấy! Pháp quyền của
một đơn vị nhỏ hạ tầng là như thế.
Tôi ưu tư, liệu đến bao giờ những người đại diện chính quyền của
chế độ này mới ý thức được thế nào là một đời sống vì dân, hầu xây
dựng một quốc gia tiến bộ trong giai đoạn mở đầu của kỷ nguyên
mới. Để đời sống người dân thể hiện đúng nghĩa là một
đời sống được tôn trọng, an toàn và hạnh phúc.
Nhà tôi chợt hỏi nhỏ phía sau:
- “Mình có làm thủ tục “đầu tiên” không anh. Em thấy bảng
lưu ý hành khách không để tiền trong hộ chiếu?”
Tôi đã quan sát hành động của người đứng trước, cũng như nhớ lời
khuyên của người về cùng khi gặp họ tại phi trường Hong Kong, nên
lặng lẽ gật đầu, mặc dù hành động này làm tôi hổ thẹn. Một
điều tôi không gặp dù đến phi trường của bất cứ quốc gia nào ngoài
quê hương của tôi. Tôi đành phải làm theo mọi người,
vì tới “ Nước Lào” tôi phải ăn “Mắm Ngóe”như các cụ
xưa đã dậy.
Tôi cũng thấy khung kính hình chữ nhật có kẻ chữ mầu sơn
đỏ treo phía trên bàn cán bộ Hải quan, cũng như đọc nhiều lần Pháp
lệnh đến Quyết định của nhà nước. Kể từ ngày quân, cán, chính
miền Nam theo lệnh gọi khăn gói lên đường trình diện học tập, đến
án lệnh 3 năm tập trung cải tạo. Gần đây, nhà nước đã đưa ra
nhiều điều luật nghiêm khắc hầu chặn đứng nạn tham nhũng cửa quyền
đang đục khoét làm rữa nát quốc gia nghèo khó này. Nhưng pháp
luật vẫn để lại nhiều khe hở, hay vì con người làm ra luật nên
quyền hành ở trên luật pháp. Một thứ pháp luật chỉ áp dụng
cho đám dân nghèo thấp cổ bé miệng. Người ta tìm giết
những con tép và để lỗ hổng cho con cá voi chui lọt.
Trước đời sống xa hoa của giới lãnh đạo và gia đình họ, người dân
cay đắng tự hỏi, liệu lương tháng của những người cầm quyền và các
cán bộ cao cấp của đảng và nhà nước còn quy theo tiêu chuẩn mấy
chục ký gạo không. Hay sau ngày xâm chiếm miền Nam mọi thứ đã
thay đổi, người ta dùng vàng để định mức lương bổng cho giới lãnh
đạo sau thời gian “nằm gai nếm mật, giải phóng dân tộc”. Của
cải chiếm được của miền Nam được giữ làm của riêng. Do đó,
nạn tham nhũng từ trên xuống dưới vẫn được nuôi dưỡng, mà theo
người xưa: “thượng bất chính, hạ tắc loạn” đã xẩy ra.
Tôi hiểu hoàn cảnh của người cán bộ Hải quan, Tết nhất đến nơi, hắn
cần đủ sở hụi nộp cho thượng cấp để được ở chỗ này lâu hơn.
Hắn ta phải thu lại vốn cộng thêm một chút tiền lời số tiền đã bỏ
ra. Lại còn vợ con hắn, ngày Tết vật giá leo thang đến chóng
mặt, mà lương tháng chỉ mua được hơn một thùng bia ngoại, trong khi
các cán bộ lớn mua vui hàng đêm bằng số tiền lương mà cả đời
hắn làm việc vất vả.
Thấy hắn, tôi nghĩ tới anh em, con cháu của tôi, đến lớp người
không có dịp may như hắn, không có đảng tịch, thì đời sống của gia
đình họ sẽ ra sao?
*
Trời về chiều, thời tiết những ngày cuối năm trở lạnh. Trước
mắt tôi chói lòa mầu đỏ thắm. Những biểu ngữ và mầu cờ che
khuất tầm nhìn. Tôi chợt nhớ tới câu thơ của Trần Dần vào
thời “Trăm hoa đua nở”:
“…Tôi bước đi, không thấy phố, không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa, trên mầu cờ đỏ…”
Đường phố nhộn nhịp. Khách bộ hành, xe hai bánh và xe gắn máy
đan nhau trong trong lớp khói mù. Nhìn quang cảnh trước mắt,
tôi liên tưởng tới ca khúc “Tiến về Hà Nội” của nhạc
sĩ Văn Cao vào thời “Cách mạng Tháng 8”:
“…Năm cửa ô đón mừng đoàn quân tiến về
Như đài hoa đón mừng nở
năm cánh đào…”
còn ầm vang bước quân hành đã một thời khích động lòng người
yêu nước ồ ạt “Bài Phong, Đả Thực”.
Hà Nội còn đó, nhưng mọi thứ đã thay đổi, như vừa trải qua
cơn “bạo bệnh” chưa hoàn hồn, của thời tem phiếu bao cấp, với
hình ảnh:
“Bắt không quần phải không quần,
Cho may-ô mới được phần may-ô.”
Mặc dù sau ngày 30-4-1975, “Miền Nam nhận họ, miền Bắc nhận hàng”,
tài sản của miền Nam, của công cũng như thuộc tư nhân, lên tới hàng
trăm Tỷ Mỹ kim đã theo nhau ra Bắc, nhưng vẫn không vực dậy được
một đất nước thiếu khả năng xây dựng cũng như tinh thần vì dân
tộc. Miền Nam vốn là một vựa thóc, có thể nuôi sống cả nước,
nhưng sau ngày gọi là “giải phóng miền Nam” cả nước phải ăn bo-bo,
một loại thực phẩm để nuôi trâu ngựa. Mà nhiều năm trước đó,
năm 1960, Thủ tướng Lý Quang Diệu đã ao ước, chỉ mong đảo quốc
Singapore có đời sống như Sài Gòn. Với nhận thức thiển cận
của người cầm quyền, chỉ bồi đắp cho gia đình, phe cánh mà quên đi
tương lai của cả dân tộc, nên đời sống người dân lâm vào cảnh:
“Đầu đường Đại Tá vá xe,
Cuối đường Trung Tá bán chè đậu đen.”
Hà nội chưa có công trình nào đáng kể ngoại trừ lăng ông Hồ tại
trung tâm thành phố. Tôi đặt câu hỏi, tại sao người ta xây
ngôi nhà mồ giữa trung tâm thành phố, một kiến trúc góc cạnh thô
cứng mang mầu sắc ảm đạm, chen giữa các công trình có đường nét dịu
dàng, nghệ thuật. Ngôi nhà mồ mang hình ảnh của một tội đồ
tàn ác, diệt chủng, mất hết tính người, mà sự hiện diện của nó tại
giữa Thủ đô, chỉ là điềm báo về sự bất hạnh của quốc gia này.
Trong khi đất nước đang chìm đắm trong chiến tranh, đời sống của
người dân nghèo không đủ cơm ăn ngày hai bữa, oằn người đóng thuế,
phải ngậm miệng cung cấp các vật liệu tốt nhất để xây dựng ngôi nhà
mồ. Theo tài liệu ghi lại, “Cát lấy từ suối Kim Bôi, tỉnh Hòa
Bình. Đá cuội được chuyển từ các con suối vùng Sơn
Dương thuộc Chiêm Hóa và Ngòi Thìa thuộc tỉnh Tuyên Quang. Đá
xây nhà gồm đá Nhồi ở Thanh Hóa, đá Hoa Cương thuộc khu vực Chùa
Thày, đá đỏ núi Non Nước, đá dăm từ mỏ đá Hoàng Thi thuộc Thác Bà
tỉnh Yên Bái…chưa kể đá ngọc mầu đỏ, đá hoa cương được các địa
phương cung cấp. Gỗ quý mang về từ Tây Nguyên. Riêng
dòng chữ “Không có gì quý hơn Độc Lập Tự Do” được dát bằng
vàng. Thật là một công trình “vĩ đại”, đã làm tiêu hao tiền
của và sức người của nhân dân.
Ngân khoản xây dựng ngôi nhà mồ không thấy đảng CS thông báo.
Số người bị tai nạn, thương tật trong khi cung ứng vật liệu xây cất
cũng không được nêu ra.
Một cuộc chiến hao tổn nhiều xương máu của người dân, cũng chỉ nhằm
mục đích trung thành với Quốc tế CS, như ông Hồ trả lời Mao Trạch
Đông khi yêu cầu Trung quốc cung cấp quân trang quân dụng để đánh
chiếm miền Nam: “Chúng tôi đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng, dù phải đốt sạch
dẫy trường Sơn.” Câu nói “để đời” này được Lê Duẩn nhắc lại rõ hơn: “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung quốc”…
Sau hơn hai mươi năm ngưng tiếng súng, nhất là từ sau ngày mở cửa,
người Việt hải ngoại đã chuyển về nước hàng Tỷ Mỹ kim mỗi năm, một
ngân khoản không hoàn trả, khiến Hà Nội thay đổi. Nhưng rất
tiếc, chỉ thay đổi bộ mặt thành phố, một sự thay đổi đoản kỳ, đã bỏ
mặc nông thôn ngày một sa sút. Các danh lam thắng cảnh được
tô vẽ vì mục đích lợi nhuận nhất thời, hơn là bảo tồn nét đẹp về
văn hóa cổ truyền.
Có người cho rằng, sinh hoạt về văn hóa và đạo đức của Hà Nội thay
đổi sau ngày 30-4-1975, nhất là về “Văn hóa chửi” đã xâm nhập mọi
tầng lớp dân chúng tại miền Bắc. Thực ra, chính sách “Cải
cách ruộng đất” đã phá tan truyền thống đạo đức dân tộc, trong đó
phải kể tới “Đấu tố”, con tố cha vợ tố chồng, một hình thức ảnh
hưởng trầm trọng tới đạo đức gia đình. Sau khi chính
sách “Trăm hoa đua nở” được thực hiện, những người trí thức không
đi theo đường lối của cộng sản đã bị đầy ải trong các nhà tù hay
tại các vùng núi rừng miền Bắc. Sách báo, cả về nghiên cứu
văn học, lịch sử lẫn phong tục tập quán đã bị thiêu hủy, để đi theo
nếp sống văn hóa mới của cộng sản. Quan trọng nhất là xuyên
tạc lịch sử, khiến văn hóa dân tộc bị mất gốc. Đạo đức học
đường và xã hội vì vậy ngày một tệ hại. Trước tệ nạn xã hội
ngày một gia tăng, người dân đã nhận định: “ra ngõ không còn gặp
anh hùng”.
Với đường lối cai trị độc tài, không chấp nhận mọi ý kiến xây dựng
xã hội để theo kịp với đà tiến văn minh thế giới, khiến đất nước
ngày càng tụt hậu. Với chính sách kinh tế đoản kỳ, chân trong
chân ngoài của người cầm quyền, niềm tự hào trở thành con rồng Á
Châu về kinh tế, qua mặt Nhật Bản Đại Hàn như thường được rêu rao,
vẫn chỉ là ảo tưởng.
*
Hình ảnh đẹp về nếp sống của Hà Nội trong tâm tư của tôi vẫn còn
đó. Nhưng vào lúc này, xung quanh tôi mọi thứ đều xa lạ, hiếm
thấy giọng nói ngọt ngào, ấm dịu của người Hà Nội năm xưa.
Một giọng nói “xa lạ” đang hiện diện ở thành phố cổ kính này.
Tôi tự hỏi, thành phố này đã để mất giọng nói yêu thương kia trong
hoàn cảnh nào? Phải chăng, theo bước chân ồ ạt “tiến về Hà
Nội” từ vùng đất Thanh Nghệ “quê hương Bác” nơi được vinh danh là
“thành đồng của cách mạng Mùa Thu”, đã thay đổi, xoá tan nếp
sống và phong thái cũ?
Nét đẹp của Hà Nội vào những ngày tháng cũ chỉ còn là hoài
niệm. Không còn sắc thái cổ kính mà tiềm ẩn vẻ thơ mộng,
trang trọng nhưng hàm chứa nét trữ tình của thành phố ngàn năm văn
vật. Sinh hoạt đặc trưng của văn hóa dân tộc Việt đã nhường
chỗ cho một nếp sống “Văn hóa mới”, chỉ thể hiện sự lạc lõng nửa
vời, khiến tôi có cảm tưởng xa lạ tại
chính nơi quê hương yêu dấu của mình.
Hà Nội đang ở trước mắt tôi. Tôi lặng nhìn mà tâm tư tìm về
dĩ vãng, nuối tiếc nếp sống của một thời đã
qua. Đành rằng, “Kỷ niệm không bao giờ chết”.
Nhưng đã “tàn phai” trước những đổi thay hiện tại.
Hà Nội vẫn còn đó, nhưng “Hồn Dân tộc” ở đâu bây giờ?
***
Chú thích:
(1) Nguồn: Hình trên Google
(2) Nguồn: Trần Quốc Vượng)
__._,_.___
Posted by: Gia Cat <giacat54@yahoo.com>
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen