letamanh
Có lẽ những người sanh
ra và lớn lên ở nơi nào đó trong lòng phố Nha Trang, thì họ sẽ thấy từ quang cảnh,
biển đảo đến con người nơi nầy, đều… thường thôi! Nhưng nếu có một khách lạ tài
hoa tình cờ ngang qua, họ sẽ thích thú, nâng niu, nhìn ngắm hay thậm chí còn
sáng tác những dòng thơ tuyệt diệu, những bản tình ca bất hủ ca tụng những rung
cảm, những đam mê của họ, về một thắng cảnh độc đáo có một không hai: Nha Trang!
“…Nha
Trang là miền quê hương cát trắng, có những đêm nghe vọng lại, ầm ầm tiếng sóng
xa đưa…” lời nhạc Minh Kỳ
Nhưng khi những người
con Nha Trang lưu lạc xứ người, thỉnh thoảng gặp nhau thì lại khác: Da diết nhớ
biển ấm, nhớ những hòn đảo xa xa ngoài vịnh, nhớ Cầu Đá, nhớ Xóm Bóng, nhớ Tháp
Bà, nhớ ngôi trường từng mài đủng quần niên thiếu, nhớ những mối tình thơ dại đầu
đời và những hẹn hò bên bải biển… Nhớ những cảm giác vô hình trước kia, khi họ
còn ở quê hương, chẳng bao giờ trân quý!
Kỷ
niệm nào trải mộng ngày qua,
Ướp
ước mơ dưới rặng dương già.
Tay
cắp sách nhìn em vuốt tóc,
Tôi không phải là dân
Nha Trang, không có hân hạnh được ôm Nha Trang trong giấc mơ về những kỷ niệm
tuổi thơ. Tôi chỉ là một du khách tình cờ ở tuổi vừa đậu xong Trung Học Đệ Nhất
Cấp. Tôi đến Nha Trang trên một chiếc xe hàng chở đầy giây dừa và dầu dừa; khởi
hành từ Tam Quan, quê tôi, đi Sài gòn. Xe “Ba lua” cao lêu nghêu đầy hàng hóa,
chừa một cái lổ vừa đủ cho tôi ngồi, trong hóc cao, phía trên đầu tài xế. Chiếc
xe chia làm hai phần, phần đầu máy và phần thùng xe chở hàng. Phần đầu máy là
chổ tài xế và hai người hộ tống theo xe ngồi. Tôi được “gởi gấm” qúa giang, nên
họ chừa một cái lổ trống cho tôi ngồi phía trước thùng xe chở giây dừa, cao ngất
nghểu, nhưng rất thích hợp cho một nhãi ranh thích ngắm cảnh…
Tôi chẳng thích thú gì
những cảnh vật quen mắt của quê hương tôi, vừa nhàm chán vừa đơn điệu. (Đây
cũng là một trong những ý tưởng hồ đồ tuổi trẻ mà sau nầy, khi vĩnh viễn rời
xa, tôi mới thấy ân hận và nhớ nơi mình sinh ra cùng những kỷ niệm tuổi thơ vô
cùng da diết!) Xe hàng chạy trên quốc lộ Số 1, đường xấu và lắc lư. Thời những
năm 1960, đường Quốc Lộ vẫn còn rất hẹp,
cầu Tuy Hòa qua lại một chiều, đèo Rù Rì cũng thế… Nhưng tôi thì mở rộng cả
lòng đón những cảm giác thích thú chưa từng có khi ngắm nhìn… Đèo Cả, Đại Lảnh, Tu Bông, Vạn Giả, Ninh Hòa…
Rồi chết mê chết mệt với Duy Tân, Độc Lập,
Hoàng Tử Cảnh… Tháp Bà, Xóm Bóng, Xóm Cồn, Cầu Đá, Hòn Chồng…! Cầu Xóm Bóng và
cầu Hà Ra hồi đó xe qua lại cũng một chiều, nhưng sao tuyệt vời lảng mạng và hấp
dẫn quá sức!
Từ một “du khách nhóc
tì” trờ thành “cư dân Nha Trang” cũng là một đưa đẩy tình cờ. Số là, cha tôi có
một người bạn làm việc cho Hảng Xăng Con Sò (Shell) trên Phú Vinh, giữa đường
Nha Trang – Thành. Nhà ông ta ở đường Hoàng Tử Cảnh, khúc gần ngã tư Hai Chùa.
Tôi đến Nha Trang với một bức thư viết tay và nhờ nó, tôi ăn ở nhà người bạn của
cha tôi một tuần lễ “du lịch” Nha Trang chẳng tốn tiền… Du lịch Nha Trang bằng
phương tiện “chùa”, ăn ở “chùa”. Số tiền ít ỏi bọc trong túi lúc ra đi, má tôi
nhét vào túi vẫn còn y. Chai dầu Nhị Thiên Đường bà nội tôi cho để phòng khi
“trái gió trở trời” vẫn chưa khui giấy bọc.
Thế là, chỉ một tuần lễ
“cởi ngựa xem hoa” thành phố “Thiên Đường tuổi trẻ” là tôi chết mê chết mệt.
Tôi yêu bất cứ chổ nào trong thành phố, ngoài bải biển, từng hòn đảo ngoài khơi,
những ngọn đèn đêm ghe chài nhấp nháy rãi đầy xa tầm mắt, qua tiếng sóng thì thầm,
hàng dương trước Đại Khách Sạn vỗ về giấc mơ dạt dào và kỳ lạ trong hồn…
Sóng
vỗ hồn bay theo cánh chim,
Ngập
trời áo tắm nắng lan tìm.
Dạ
tràng len cát đời cô lẻ,
Dõi
bóng tìm ai lạc đường tim!
Quê hương tuổi thơ của
tôi đầy chiến tranh, bom đạn, chết chóc và những kỷ niệm năm tháng “tiêu khổ
kháng chiến” vùng Liên Khu 5 với những
ngày khoai mì và cơm dừa là món ăn
chính. Tôi đã sống èo ọt trong những năm tiểu học, với chiếc khăn quàng đỏ “Cháu
Ngoan Bác Hồ”. Sau Hiệp Định Geneve, tôi mới có dịp được biết thế nào là ghế
nhà trường và tưởng lai tuổi trẻ! Chính vì thế nên ánh sáng thành phố Nha Trang
làm tôi choáng ngợp, mở ra trong mắt tôi toàn hào quang sáng lòa tương lai…
Gió
xoáy bảo giông chợt lướt qua,
Cơn
mê chũ nghĩa bỗng nhạt nhòa.
Thiên
đường mơ ước đời mộng, thật!
Con
sóng bò tìm cát giao thoa…!
Tôi làm sao quên những
ngày say sưa phơi nắng trên bải cát có hình cong cong từ Xốm Cồn đến Cầu Đá, Đồng
Đế, Vĩnh Xương, Phú Vinh, Thành, Cửa Bé
với những trại ngày, trại đêm Tráng Đoàn Hướng Đạo. Những cuộc thám du bằng
ghe qua những hòn đảo ngoài khơi với vùng san hô và đàn cá đủ màu, thiên đường
dưới nước! Làm sao quên ngôi trường thân yêu trên đường Bá Đa Lộc mang tên Vỏ
Tánh và cũng làm sao quên áo dài bay bay, những đợi chờ bên kia cổng Nữ Trung Học!
Thoải
mái bơi, ngắm đàn tiên cá,
Màu
san hô đón nắng thủy tinh.
Thiên
nhiên khoe sắc hữu tình,
Ta
du viễn mộng tưởng mình cỏi tiên!
Trên đỉnh hòn đảo lớn về
phía Đông, có ngọn Hải Đăng. Tôi và Tráng Đoàn Hướng Đạo có dịp tò mò trèo lên
gỏ cửa. “Chủ nhân” là một Hải Quân già
đã về hưu, gắn bó với trời mây non nước, xa vắng chợ đời! Ông đem theo nheo
nhóc một “gia đình” gồm bà vợ già, con chó vàng, bầy gà… A! Hình như có một chuồng
bồ câu nữa. Ông cười nhìn những “người đất liền’ tâm sự:
-
Vợ chồng tôi chỉ thiếu tiếng xe hơi, tiếng
cải lộn, tiếng chữi thề; thiếu phở… còn thịt gà, thịt bồ câu, cá tôm thì không
thiếu!
-
Thưa Bác, Hai ông bà sống như thế nầy có
buồn cô đơn không?
-
Quen rồi, Bà nhà tôi không đòi hỏi gì.
Mình sống thảnh thơi ngay trong tâm thanh tịnh. Các cô cậu còn trẻ, nếu ở dây
chừng một ngày đã thấy ngán, chán đời. Nhưng già rồi, không còn muốn tranh đua
nơi đô hội thì mới “tu” ở đây được…
Ông dẫn chúng tôi trèo
lên tháp có ngọn đèn pha. Từ chân tháp bước vào cánh cửa sắt an toàn và bắt đầu
trèo lên những bậc thang vòng cung. Tháp xây theo hình ống, dưới lớn trên nhỏ dần.
Cuối cùng là một phòng rộng, chính giữa có bệ xoay vòng. Hồi những năm 1960, ngọn
đèn “bảo” được thắp lên bằng dầu chính giữa, kính hội tụ dày to xoay quanh ngọn
đèn bởi một hệ thống cơ học. Thời đó chưa có điện, thế mà ánh sáng “hải đăng”
hàng đêm quét vòng một luồng ánh sáng xa hàng mấy hải lý. Tàu ghe ngang qua lại
đều nhờ ngọn hải đăng dẫn lối, biết được đâu là bến bờ…
Ông già còn hướng dẫn
chúng tôi xem một hồ chứa nước vĩ đại xây dính theo cơ sở và nhà ở. Cao trên sườn
đảo cheo leo dốc đứng, nước ngọt được tích trử bằng những ống xối bốn phía mái
nhà xây gạch. Nước mưa quanh năm suốt tháng được dẫn vào hồ chứa lớn nầy. Nước
ngọt trên ốc đảo vừa quý vừa ngọt lòng người!
Người
xa người để phục vụ người,
Ta
xa em ước mộng càng tươi,
Chấp
thức chỉ ý đời bỏ ngỏ,
Sóng
lòng nhau xa những hương đời
Hồi đó, tôi chưa có thể
tưởng tượng nổi, nếu mình là một Hải Quân, mình có chấp nhận ngồi bó gối cạnh
ngọn đèn đêm ở một hải đảo, đếm thời gian qua từng cánh nhạn, cánh én, từng lúc
mặt trời lên bên Đông và khuất dần theo mù tít đất liền phía tây…! Cho nên, khi
trở lại Nha Trang để thi vào Trường Hải Quân khóa 16 năm 1965, lúc bước vào cổng
chính gần Cầu Đá, tôi nhớ lại cảm giác từng đứng bên ngọn hải đăng trên Đảo Lớn
ngoài Vịnh. Bổng nhiên tôi quay bước trước sự ngac nhiên của mấy thằng bạn cũng
từ Sài Gòn ra Nha Trang thi vào Binh Chủng Hải Quân! Sau nầy bị động viên vào Bộ
Binh, tôi mới có dịp suy ra rằng: Số tôi không thể nào mặc quân phục màu trắng
của binh chủng oai hùng, vẫy vùng trên sóng nước đại dương, mà chỉ là một chàng
bộ binh tầm thường với một gia đình bình thường trên đất liền mà thôi!
Nghiệp
đời anh chỉ yêu em,
Nghiệp
mình sợ lắm môi mềm tinh anh.
Chờ
nhau về cỏi xuân xanh,
Tìm
hoài trong cát xe thành hương yêu!
California,
tháng 7 năm 2013
letamanh
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen