VÀ SEATO SẼ ĐƯỢC HỒI SINH Ở Á CHÂU DO NHẬT LÃNH ĐẠO -DƯỚI SỰ BẢO TRỢ CỦA HOA KỲ
Crimée và giàn khoan HD 981 : Gọng kìm Nga – Trung chống Mỹ ?
Việc
Trung cộng đưa dàn khoan biển nước sâu 981 ở bờ biển Việt Nam vào đầu
tháng Năm vừa là một sự leo thang nguy hiểm trong lúc tình hình Biển
Đông đang căng thẳng. Khả năng va chạm hàng hải giữa Trung cộng và Việt
Nam không còn chỉ ở mức có thể xẩy ra nữa, kể từ vụ xung đột ở đảo Gạc
Ma (Johnson Reef) năm 1988 làm khoảng 70 thủy thủ Việt
Nam thiệt mạng. Nhiều người ở Washington đánh giá hành động của Bắc
Kinh là không đáng lo ngại, thế nhưng, trong suy tính của Trung cộng ,
thì sự khiêu khích này bắt nguồn từ chiến lược bành trướng.
Điều gì đã xẩy ra ?
Bắc Kinh khẳng định rằng, trên cơ sở nghiên cứu lịch sử, Biển Đông và tất cả các nguồn tài nguyên trong đó thuộc về Trung cộng . Gần đây, Bắc Kinh lớn tiếng đưa ra các đòi hỏi lãnh thổ dựa trên bản đồ 9 đường gián đoạn và Trung cộng đã điều động tàu đánh cá, tàu cảnh sát biển và tàu hải quân ra để khẳng định đòi hỏi này.
Việt Nam cho rằng khu vực đó là
của mình mà Việt Nam gọi là Biển Đông và khu vực này thuộc vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý.
Cả Việt Nam và Philippines phản đối mạnh mẽ các hành động của Trung
cộng , còn Indonesia, Brunei và Malaysia thì cũng có phản ứng tương tự,
tuy có kín đáo hơn.
Trung cộng
biết là việc bố trí giàn khoan dầu 981 có thể làm cho Việt Nam tức
giận, do vậy, họ điều khoảng 80 tàu đi bảo vệ. Việt Nam chống lại và đã
điều động 29 tàu tuần duyên và hải quân, trong số này, nhiều tàu bị các
tàu Trung cộng đâm và phun vòi rồng tấn công.
Tất cả những điều này có nghĩa gì ?
Trước tiên, nhìn từ góc độ chiến lược chung, Bắc Kinh hành động phối hợp với đồng minh mới của họ là Nga. Trong ba năm qua, hai bên đã xây dựng liên minh chiến lược, cho dù còn lỏng lẻo, để chống lại ảnh hưởng của Mỹ. Vào lúc Nga chiếm Crimée và làm cho chiến trường Tây Âu ù tai với các máy bay ném bom chiến lược,
thì Trung cộng cũng hành động tương tự ở phía đông. Đó là hành động
xiết gọng kìm, với cuộc chiến phi đối xứng, được tính toán kỹ lưỡng, sử
dụng tối thiểu lực lượng và thủ đoạn, chưa đến mức để gây ra phản ứng
quân sự của Mỹ, nhưng cũng đủ để Nga và Trung cộng đi xa hơn trong các
mục tiêu
của mình. Điều này phần nào được khuyến khích do chính quyền Obama đã mất đi khả năng đối phó với một cuộc chiến trên hai mặt trận.
Trung cộng và Nga đã buộc Hoa Kỳ phải dàn trải các mối quan tâm và
nguồn lực. Trong “Tam Thập Lục kế” người Trung cộng gọi đây là kế « Hỗn thủy mạc ngư – Đục nước bắt cá – Lợi dụng tình thế, hành động đạt mục đích ».
Thứ hai,
Trung cộng nhìn thấy Hoa Kỳ, với tư cách là cường quốc thế giới, đang
rút lui chiến lược nhanh chóng. Trung cộng nhận ra
cốt lõi các thất bại của Mỹ về an ninh quốc gia, như trong hồ sơ Irak
(ra đi quá sớm), Afghanistan (chiến lược chống nổi dậy quá khó để thực
hiện), Libya (tình trạng tồi tệ sau thời kỳ « lãnh đạo từ phía sau, giật dây ở hậu trường ») và Yemen (Al Qaeda có căn cứ mới bất chấp các vụ tấn công liên tiếp bằng máy bay không người lái). Bắc Kinh nghĩ rằng Washington không thể hiểu nổi Pakistan, « anh em cừu địch » của Hoa Kỳ và gần như là đồng minh của Bắc Kinh.
Trung cộng cũng đánh giá rằng chính sách dấn thân vào Trung Đông của
Tổng thống Obama ở Trung Đông trong bài diễn văn Cairo 2009 đã thất bại
vì khủng bố thánh chiến
Hồi giáo gia tăng và tất cả các cuộc cách mạng Mùa Xuân Ả Rập đều trở nên tồi tệ. Do vậy, ở trong khu vực Châu Á, cần phải chiếm lấy Biển Đông. Người Trung cộng gọi kế này là « Cách ngạn quan hỏa – Đứng trên bờ xem lửa cháy trên sông » - có nghĩa là cứ để yên cho kẻ địch tự rối loạn, kiệt quệ về quân sự, sau đó, ra tay hành động.
Thứ ba,
liên quan đến chiến lược khu vực, cho dù Trung cộng nhìn thấy Hoa Kỳ
đang ngày càng yếu đi, nhưng họ cũng lo ngại về chuyến công du Châu Á
của Bộ trưởng Quốc phòng Chuck Hagel, để
« thêm da đắp thịt » cho chiến lược
xoay trục sang Châu Á, với các thỏa thuận quốc phòng và hỗ trợ an ninh.
Các thỏa thuận này bao gồm cả việc đẩy mạnh các cuộc tập trận quân sự
thường niên với các đồng minh Đông Nam Á như Philippines : Cuộc tập trận Balikatan (Vai kề vai) đã bắt đầu ngày 05/05 vừa qua. Do vậy, các hành động khiêu khích của Trung cộng là nhằm lách vào bên trong « chiến lược tổng lực dấn thân cùng khu vực » truyền thống của Hoa Kỳ, với một « cú đấm thẳng trong cuộc chiến phi đối xứng ». Nếu hành động nhanh bây giờ, Trung cộng nghĩ rằng sẽ khiến cho Mỹ gặp nhiều khó khăn hơn trong việc giúp đỡ các
đồng minh ASEAN về sau này.
Thứ tư,
Trung cộng lo ngại Việt Nam đang mạnh lên. Kinh tế Việt Nam phát
triển. Hà Nội đang nâng cấp quân đội và hải quân để bảo vệ bờ biển -
Biển Đông – nơi đóng vai trò trung tâm đối với ngành hàng hải, ngư dân
và lĩnh vực năng lượng của Việt Nam. Chính quyền Hà Nội cũng biết rằng toàn bộ đất nước của họ có thể bị xâm lược và tấn công từ phía bờ biển vào.
Với các ý tưởng về an ninh quốc gia, Trung cộng mong muốn có một Việt Nam ngoan ngoãn và vâng lời theo truyền thống Khổng Tử và Vương triều Trung Quốc. Họ nhắc lại cuộc xâm lăng trừng phạt
vào miền bắc Việt Nam trong lúc Hà Nội có đội quân đứng hàng thứ tư trên thế giới. Việt Nam đã nhượng một ít lãnh thổ và mỗi bên có khoảng 30 ngàn người bị thiệt mạng trong gần một tháng chiến sự. Do vậy, theo quan điểm của Bắc Kinh, làm giảm sức mạnh đang chớm nở của Việt Nam là trò chơi thông minh.
Vậy
tình hình ở Biển Đông sẽ đi tới đâu ? Dường như tình hình sẽ tồi tệ
hơn. Không bên nào chịu lùi bước. Vả lại, Trung cộng đang có những hành
động tương tự trong các đòi hỏi chủ quyền biển đảo với Nhật Bản. Trừ
phi những cái đầu trầm tĩnh ở Bắc Kinh thắng thế, những rối loạn này có thể dẫn đến một sự sai
lầm khủng khiếp.
Một nước Việt Nam bị dồn vào chân tường sẽ phản ứng dữ dội hơn là Bắc Kinh lầm tưởng.
Các nước ASEAN, vốn liên minh lỏng lẻo với nhau, sẽ buộc phải đoàn kết
trước các hành động của Trung cộng và điều này đi ngược lại các mục
tiêu của Bắc Kinh. Nhật Bản đang bị chèn ép và tái vũ trang. Còn Hoa Kỳ
chưa hẳn là quá suy yếu và bị tổn thương đến mức Bộ Chỉ huy Thái Bình
Dương và hải quân Mỹ không còn khả năng hành động.
Bắc Kinh dường như bị mù quáng về « sự trỗi dậy Trung Hoa », về sự tự hào dân tộc hào nhoáng và thành công kinh tế vang dội. Do
vậy, Trung cộng đang gặp nguy hiểm khi không tuân thủ ngạn ngữ của chính họ : « Lên lầu rút thang »,
có nghĩa là Trung cộng đang trên đường tự cô lập mình về mặt quân sự,
khi hành động một cách vội vã. Chỉ có các chiến lược gia sáng suốt của
Trung cộng có thể giúp làm giảm nhiệt tình hình đang rất nóng bỏng này
Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á hay Liên phòng Đông Nam Á,Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á – Wikipedia tiếng Việt cũng còn gọi
là Liên minh Phòng thủ Đông Nam Á[2] (tên tiếng Anh: South East Asia Treaty Organization, viết tắt là SEATO) là một liên minh của các quốc gia được tuyên bố nhằm mục đích phòng thủ và hợp tác kinh tế ở Đông Nam Á và khu vực Thái Bình Dương.
TỔ CHỨC
LIÊN PHÒNG ĐÔNG NAM Á SEATO
Southeast Asia Treaty Organization
Lịch sử
Liên minh này được thành lập ngày 8 tháng 9 năm 1954, chưa
tới 2 tháng sau Hiệp định Genève được ký, kết thúc Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, tạm thời chia đôi Việt Nam tại vĩ tuyến 17 và buộc quân Pháp rút khỏi Đông Dương. Các nước thành lập SEATO gồm có: Australia, Pháp, Anh, New Zealand, Pakistan, Philippines, Thái Lan và Hoa Kỳ.
Cũng như Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), liên minh SEATO ra đời nhằm mục đích ngăn chặn sự lan tràn của chủ nghĩa cộng sản,
nhưng khác với NATO, SEATO không ràng buộc các quốc gia thành viên tham
chiến chống lại mối đe doạ quân sự. Dù SEATO hợp thức hóa nỗ lực quân
sự của Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam và
nhiều
quốc gia thành viên SEATO gửi quân đến Việt Nam quân sang tham chiến,
chính SEATO thì lại không đóng vai trò trực tiếp trong cuộc chiến này.
Pháp ngừng tham gia tích cực vào SEATO năm 1967 và Pakistan chính thức rút khỏi tổ chức này năm 1972.
Khi Hoa Kỳ rút quân khỏi Việt Nam năm 1972-1973 và lực lượng cộng sản chiếm ưu thế ở Đông Dương năm 1975, SEATO đã trở thành một tổ chức lỗi thời. Với sự đồng thuận chung, liên minh này giải tán ngày 30 tháng
6 năm 1977.
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen