Nguyễn Thị Thêm
Gia đình tôi cổ hủ và tôi là đứa con gái duy nhất nên bị ràng buộc
trong tầm suy nghĩ của mẹ. “Trai thời trung hiếu làm đầu, gái thời
tiết hạnh làm câu trao mình” Cái ông Khổng tử ở tuốt bên Tàu vậy mà
uy lực ổng thật to rộng. Một người phụ nữ ít học, quê mùa như má
tôi lại thuộc nằm lòng mấy câu giáo điều đó . Thuộc để ép mình vào
khuôn khổ cả một đời và truyền lại cho con gái.
Chúng tôi cùng dạy tư cho một trường trung học công giáo do cha đạo
mở ra. Khi ấy anh đã là lính mang lon chuẩn úy. Có nghĩa là anh
cũng thuộc lính mới tò te. Một sĩ quan mới ra trường còn mang nhiều
món nợ áo cơm từ cha mẹ. Nơi anh được bổ nhiệm là một quận lỵ nằm
giữa những vùng xôi đậu. Ban ngày là của Quốc Gia, ban đêm Việt
Cộng về thăm dân. Họ nhận tiếp tế, tuyên truyền và rải truyền
đơn.
Người dân như mang mặt nạ, không dám biểu lộ tình cảm của mình với
lính Quốc Gia. Xung quanh hàng xóm không biết ai là bạn, ai là Việt
Cộng nằm vùng. Cuộc sống bấp bênh trong những trận càn của lính và
đêm sục xạo, gõ cửa rình mò của phía bên kia. Ấp chiến lược sau khi
Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị giết đã không còn hiệu lực. Một con
đường vô hình đã mở ra cho sự phát triển của phe đối nghịch. Đưa đẩy người dân vô tội vào hai gọng kìm Quốc Gia và Việt Cộng..
Khi những người bạn đồng minh lần lượt đổ quân vào thôn xóm thì như
giọt nước đã tràn ly. Người dân càng hoảng loạn không biết đâu là
chính nghĩa. Những người Mỹ, người Đại Hàn, người Thái Lan súng ống
rầm rộ khắp mọi ngõ ngách xóm làng. Người dân quê sợ sệt vì lần đầu
tiên thấy người ngoại quốc lùng sục khắp nơi. Đó là cái mồi lửa thật tốt châm ngòi cho phía bên kia. Họ tuyên truyền trong dân chúng để kéo chính nghĩa về phía
họ.
Tôi nói điều này ra có nhiều người sẽ phản đối. Nhưng đó là sự thật khi người dân không có được một sự giáo dục
rõ ràng về phía chính phủ. Họ không hiểu thế nào là Thế Giới Tự Do và thế nào là Cộng Sản.Họ không hiểu tại sao người Mỹ có mặt ở nước mình.
Nhan nhản trên đường những người lính Mỹ say sưa. Những cô gái thôn
quê bỗng chốc thay da đổi thịt. Từ ăn mặc đơn giản lại lòe loẹt
chói mắt. Một số biến thành gái mãi dâm mua vui cho những người
lính Mỹ đen, Mỹ trắng. Những người phụ nữ bỏ quên chồng con, diêm
dúa trong những bộ quần áo mini ngắn ngủn, son phấn sặc sỡ đi làm
sở Mỹ. Những áp phe buôn đồ Mỹ, bán đồ quân tiếp vụ Mỹ, quán
rượu mọc ra như nấm. Những đứa bé con lai ra đời, những
bào thai bị vất bên đường và thỉnh thoảng phát hiện xác con gái nằm
chết trong bãi rác. Những tin xấu tràn về thôn xóm, những hình ảnh
xa đọa lung lay xã hội.
Đau đớn là ở chỗ chính nghĩa bị hiểu lầm và kẻ gian ngoa đã giành
chiến thắng. Những người học sinh trong bộ đồng phục tới lớp buổi sáng. Nhưng sẽ
là một liên lạc viên báo cáo tin tức vào buổi tối cho phía bên kia. Những em học
sinh mặt thì già nhưng giấy tờ nhỏ tuổi. Có em đã có vợ, có con
nhưng vẫn mang giấy tờ giả đến trường để trốn lính. Những chị ngồi
trên xe lam đi chợ nói nói cười cười. Những cô gái đẹp làm người
tình hờ của lính. Họ là những người nằm vùng của phía bên kia. Nhiệm vụ hoạt động mật, báo tin tức, tiếp tế lương thực, thuốc
men và tiếp nhận chỉ thị của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.
Trong bộ ngực căng tròn của cô gái đẹp chứa đầy thuốc trụ sinh.
Dưới lằn vải quần mỹ a đen mượt mà kia là những lớp nylon bó thật
chặc vào đùi để tiếp tế. Trong gà mên cơm đem đi ăn một ngày,
họ ém thật chặc cho 2, 3 người ăn. Sau giờ làm, họ để lại bên rừng
cho người của mặt trận về lấy đem đi. Trong làng, đa số là phụ nữ.
Nhưng những đứa bé không cha tiếp tục ra đời mà không ai đặt vấn
đề.
Chiến tranh đã đẩy những người dân chơn chất thành những kẻ phản
bội “Ăn cơm Quốc Gia, thờ ma Cộng Sản” Đừng trách họ, mà hãy trách nhà cầm quyền không bảo vệ được họ.
Những người có nhiệm vụ tuyên truyền không dẫn giải cho dân hiểu
được sự thật, đâu là bạn, đâu là thù. Những người
làm công tác chiến tranh chính trị chỉ làm trên giấy tờ
mà không đi vào cái gốc chính là người dân -những người dân quê an phận, hiền lành-
Trong khi đó kẻ gian rình mò trong bóng đêm. Những bộ mặt giả nhân
nghĩa vừa tỉ tê dụ dỗ, vừa hù dọa khủng bố đã len lỏi vào từng gia
đình Những tổ chức bí mật được thành hình, biến người dân
thiệt thà thành tai mắt, những người đàn bà quê mùa thành những bà
mẹ anh hùng.
Thành phố rộn rã tiếng cười, những bar rượu, những đêm vui thâu đêm
suốt sáng. Thành phố không có chiến tranh cho nên thành phố đẹp,
thành phố sang. Đất nước VN không phải chỉ là thành phố mà có
cả thôn làng, núi, đồi, sông, biển. Thôn làng càng xa
xôi nghèo nàn, Việt Cộng trà trộn càng nhiều, càng khó bảo vệ.
Người dân không thương yêu gì CS nhưng sợ bị trả thù, sợ bị theo
dõi, sợ bị nghi ngờ và bị giết oan. Tội nghiệp người dân, một cổ
hai tròng. Dù đang sống dưới chế độ Cộng Hòa nhưng vẫn bị Mặt Trận
khống chế hàng ngày, hàng đêm.
Gần gũi dân nhất là những người lính Địa Phương Quân. Họ đóng quân
ngay trong làng, sống với dân và người họ sợ nhất lại chính là
những người dân. Ai đã từng đi lính thì khắc biết điều tôi nói là
sự thật. Chỉ một câu nói lỡ lời thì tin tức hành quân được bên kia
nắm bắt. Và những chuyến phục kích kể như thất bại. hay bị đảo
ngược thế cờ.
Người lính sống trong đường tơ kẻ tóc và người con gái chấp nhận
lấy lính là chấp nhận mọi sự rủi may trong đời. Đám cưới đôi khi
không dám tổ chức tại địa phương vì gia đình sợ bị theo dõi và trả
thù. Thôn làng do chính phủ VNCH làm chủ mà người dân sợ Việt Cộng
hơn Quốc Gia.
Đã trễ quá rồi khi nói đến điều này, nhưng tất cả chúng ta đều là
nạn nhân của một cuộc lừa đảo. Bao nhiêu nhân mạng oan khiên đã
chết một cách thảm thương cho cuộc chiến tương tàn. Bao nhiêu thanh
niên của nước Mỹ giàu đẹp đã bỏ thây một cách oan uổng trên chiến
trường VN. Vì sự sai lầm của cả hai phía. Tất cả tang thương đó đã
đổ lên vai, lên đầu của thế hệ chúng tôi. Những người lính, những
người vợ lính và những trẻ thơ vô tội.
42 năm qua rồi, nhưng mỗi khi tháng Tư Đen lại về tôi lại xoay
cuồng trong suy nghĩ. Tôi khâm phục cái nhìn thật rõ ràng cốt lõi
cuộc chiến VN của Tống Thống Ngô Đình Diệm. Ngài biết
thật rõ ràng về Cộng Sản kể cả sách lược bảo vệ quốc gia. Ngài
không muốn người Mỹ hay đồng minh đổ bộ vào Việt Nam.
Ngài chỉ muốn đựợc tiếp tế vũ khí và ngân sách để bảo vệ
và xây dựng đất nước. Ngài lập ra ấp chiến lược là để cắt đứt nguồn
tiếp tế lương thực và thuốc men cho phía bên kia. Đồng thời xây
dựng một lực lượng bảo vệ xóm làng từ người dân. Nhưng tiếc thay
ngài đã bị giết chết. Chế độ Đệ nhị Cộng Hòa không xoay nỗi thế cờ
chính trị. Mỹ bỏ rơi VN. Và sự thất trận đau thương xóa sổ VNCH
trong ngày 30/4/75 lịch sử. Vận mạng đất nước nhược tiểu nằm trong
tay của những đại cường. Một cuộc mua bán, sang nhượng chính trị.
Đất nước ta là món hàng đưa lên bàn cân ngã giá. Kẻ thắng chẳng oai
hùng, người thua đầy uất ức.
Bốn mươi hai năm qua rồi, nhắc lại thêm ngậm ngùi, đau đớn. Bao
nhiêu mạng người đã bỏ thây trong cuộc chiến, trên con đường chạy
loạn 30/4/1975. Bao nhiêu xác người tù CS bị bỏ thây trên rừng
thiêng nước độc. Bao nhiêu xác người bị chết trên biển đông và
trong bàn tay của hải tặc. Bao nhiêu? bao nhiêu? Một câu hỏi làm
nghẹn lòng người Việt trên khắp năm châu.
Thoắt một cái đã 42 năm. những người có mặt và tham dự trong cuộc
chiến ngày đó đều đã già. Những mái tóc bạc trắng hay hoa râm,
những tâm hồn đầy những vết thẹo quá khứ và chiến tranh. Cố gắng
xây dựng một thế hệ tiếp nối. Cố gắng sống tốt và làm sống lại một
thuở hào hùng. Đôi chân đã yếu, cơ thể hao mòn. Những người cha,
người ông đã tận lực mình vì hai chữ tự do. Họ thật đáng kính trọng
và tự hào. Nhưng trong họ biết bao nhiêu đêm trăn trở, dằn vặt vì
sức tàn, lực kiệt.
42 năm cho những người di tản. Mấy chục năm cho những người HO đang
sống ở một nước khác quê hương mình. Sau 30/4 người sĩ quan VNCH bị
tù đày nơi rừng thiêng nước độc. Không một bản án, không biết ngày
về. Họ được thả ra với một thân thể suy nhược, một tâm hồn loang lỗ
những thương đau. Trong họ mọi thứ đều đỗ vỡ, bi thương. Được thả
từ nhà tù hẹp ra nhà tù lớn với vài chục đồng lộ phí và một túi
hành trang nhẹ tênh. Nhưng họ lại mang quá nặng cái lý lịch đen
"Ngụy Quân" đè bẹp cuộc đời và cả gia đình .Có người tìm lại được
mái ấm gia đình. Có vợ, có con để dựa nương, bám víu. Có người
không còn nhà cửa, vợ con thân thích.
Nếu không có chương trình HO không biết bây giờ cuộc sống của những
người tù CS sẽ ra sao? Không có chương trình HO. Không có những
người liều chết vượt biển tìm tự do. Chúng ta sẽ không có một thế
hệ thứ hai thứ ba thành công trên đất nước Hoa kỳ hay trên thế
giới. Chúng ta sẽ không bao giờ có một Little Sai
Gon trên đất Mỹ. Chúng ta sẽ không thể hảnh diện giơ cao
lá cờ vàng và hát Quốc ca. Chúng ta không có xe hoa diễn hành ngày
tết Nguyên Đán, Chúng ta cũng không thể có những bảo tàng lịch sử
"Quân lực VNCH". Không có tượng đài Đức Trần Hưng Đạo và cũng không
thể có những nghị quyết "Vinh Danh cờ vàng" tại nhiều thành phố
trên nước Mỹ, Úc, Canada.
Cám ơn Bà Hạnh Nhơn. Cám ơn những ân nhân đã cứu vớt, đã mở con
đường sống cho những người liều chết tìm tự do như chúng
tôi.
42 năm, một thời gian quá nửa đời người. Những chứng nhân lịch sử
rất nhiều người đã nằm xuống vì tuổi già, vì bệnh tật. Những văn
nhân, thi sĩ, họa sĩ, nhạc sĩ nỗi danh cũng quá nửa đã ra đi. Một
thế hệ VNCH lần lần đi vào quá khứ. Thế hệ tiếp nối lớn lên tại Mỹ,
sinh ra tại Mỹ và chúng gia nhập vào dòng chính để làm một người Mỹ
thực thụ.
Hôm tuần trước tôi đi dự một đám ma. Người chết là một bà bác 90
tuổi. Con cái, người thân quen đến viếng tang đa phần là người
Việt, nói tiếng Việt. Nhưng quỳ dưới kia các cháu dâu rễ đa phần là
người Mỹ. Bầy cháu cố cũng là những đứa bé Mỹ lai nói toàn tiếng
Mỹ. Cả một đại gia đình nói chuyện với nhau bằng tiếng Mỹ. Người
chết chắc hẳn sẽ buồn và không hiểu chúng đang nói chuyện gì. Người
tham dự như tôi cũng xót xa cho ngay bản thân mình. Rồi thì cũng
thế mà thôi hay sao?
Không? Chúng ta đã có những lớp dạy tiếng Việt. "Tiếng Việt còn,
nước ta còn." Chúng ta không thể không hòa nhập nhưng không thể để
mất nguồn cội. Những thế hệ VNCH thứ hai thứ ba đang học hỏi để
hiểu lý do tại sao chúng có mặt nơi này. Các cháu đang làm sống lại
dòng sử Việt. Các cháu giương cao lá cờ vàng và các cháu tự hào về
nó.
Dù muốn dù khôngchúng ta cũng đã rời khỏi VN. Mọi việc của quê
hương đất nước phải do người trong nước quyết định. Có thay đổi
được vận mệnh, có bảo vệ VN khỏi bàn tay xâm lược của Tàu Cộng hay
không là do người trong nước thực hiện. Chúng ta chỉ có thể ủng hộ
tinh thần, tiếp tay đưa mọi việc ra dư luận quốc tế để làm áp lực.
Các bạn ơi! 42 năm rồi cho một cuộc chiến, cho một đời người.Con
gái tôi sinh ra 3 tháng sau ngày mất nước. Bây giờ cháu đã 42 tuổi,
là một phụ nữ trung niên, con cái đã vào Trung học. Người lính VNCH
trẻ nhất cũng đã ngoài 60. Những người lính già bây giờ đều đã đi
gần cuối cuộc đời. Sống nơi xứ người tuy đầy đủ vật chất
nhưng vẫn là nỗi khắc khoải khôn nguôi cho những giấc mơ về một VN
tự do dân chủ.
Tôi yêu quê hương VN tôi lắm. Tôi nhớ gia đình, họ hàng anh em và
bạn bè tôi. Tôi nhớ từng con đường, từng góc vườn kỷ niệm của tuổi
thơ và tuổi trẻ. Thú thật tôi sợ lắm. Sợ một ngày nào đó tôi trở về
không nhận ra đất nước của mình. Tôi sợ Trung Cộng sẽ chiếm trọn
Việt Nam. Người Việt mình sẽ bị làn sóng người Tàu tràn xuống tịch thu nhà cửa, chiếm cứ ruộng vườn. Họ sẽ đày người Việt mình đi vào
những nơi rừng núi hay đồng khô cỏ cháy. Họ sẽ xóa một nước VN như
chính quyền hiện nay xóa sổ VNCH. Họ sẽ tàn bạo hơn, quyết liệt
hơn, dã man hơn để đồng hóa chúng ta. Vì mộng bá chiếm VN ấp ủ mấy
ngàn năm nay đã toại nguyện.
Một SàiGòn xưa đã mất. Một nền văn hóa nhân bản đã mất. Có thể rồi
đây nước Việt Nam sẽ bị xóa sổ trên bản đồ thế giới . Chẳng ai còn
nhớ đến bà Trưng, bà Triệu, Hưng Đạo Vương, vua Quang Trung....
Tôi có bi quan quá hay không? Xin nhường câu trả lời cho tất cả mọi
người. Chỉ mong sẽ không bao giờ là sự thật. Chỉ mong được như vậy.
Xin các đấng tiền nhân, hương linh những anh hùng tử sĩ phò hộ cho
nước Việt mình vượt qua cơn bão giông này.
42 năm đã quá đủ cho những thương đau.
Nguyễn thị Thêm
Tháng 4/2017
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen