Trọng Nghĩa
Kể từ lúc Tòa Trọng Tài Thường Trực La Haye PCA phán quyết hôm
12/07/2016 rằng yêu sách chủ quyền của Trung Quốc trên hầu như toàn
bộ Biển Đông không có cơ sở pháp lý, Bắc Kinh đã liên tục có những
hành vi hù dọa và thị uy, cả bằng lời lẽ lẫn hành động thực tế.
Trong bối cảnh đó, Washington đã có những phản ứng khác nhau, về
ngoại giao thì chủ trương hòa hoãn, nhưng về quân sự thì tiếp tục
tăng cường lực lượng qua vùng châu Á-Thái Bình Dương.
Về các hành vi hù dọa của Trung Quốc, giới quan sát đã ghi nhận
những cuộc tập trận liên tiếp của Hải Quân Trung Quốc tại vùng Biển
Đông, và nhất là hai phi vụ diễn tập “tuần tra tác chiến” trên
không phận Biển Đông, đặc biệt là trên vùng quần đảo Trường Sa, và
bãi cạn Scarborough, hai nơi được nhắc đến trong phán quyết phủ
nhận chủ quyền lịch sử của Trung Quốc.
Còn trên phương diện ngoại giao, Bắc Kinh không từ một thủ đoạn nào
để ép các nước khác không đòi Trung Quốc tôn trọng phán quyết của
Tòa Trọng Tài La Haye, thậm chí không nhắc đến văn kiện này.
Mỹ đối với Trung Quốc : Mềm về ngoại giao, cứng về quân sự
Trước những hành vi nói trên của Bắc Kinh, Hoa Kỳ đã có những phản
ứng mềm mỏng khác thường, nhất là trên bình diện ngoại giao, chẳng
hạn như không can thiệp nhiều tại các diễn đàn ASEAN khi Trung Quốc
tăng sức ép bịt miệng khối Đông Nam Á trên vấn đề phán quyết Biển
Đông, hoặc liên tiếp cử phái viên cao cấp đến Bắc Kinh như cố vấn
an ninh quốc gia Susan Rice hay tư lệnh Hải Quân John Richardson.
Tuy nhiên, trên hiện trường châu Á, các giới chức quân sự Mỹ vẫn
năng nổ hành động, với những tuyên bố cứng rắn của giới lãnh đạo
Hải Quân, và nổi bật nhất là việc điều hai loại oanh tạc cơ chiến
lược tối tân nhất của không lực Mỹ hiện nay là B1 và B2 đến đảo
Guam, ngoài khơi Philippines.
Giới chức không quân Mỹ nêu lý do tình hình bán đảo Triều Tiên và
các đe dọa đến từ Bình Nhưỡng, nhưng các nhà quan sát đều ghi nhận
sự kiện các oanh tạc cơ này được bố trí sát cạnh Biển Đông, nơi
Không Quân Trung Quốc càng lúc càng diễu võ giương oai.
Gs Nguyễn Mạnh Hùng: B1 và B2 đến Guam để thị uy và răn đe
Để hiểu rõ thêm về chiến lược Biển Đông của Mỹ sau khi Trung Quốc
bị trúng một ngón đòn pháp lý cực mạnh của Tòa Trọng Tài Thường
Trực La Haye, RFI đã phỏng vấn giáo sư chính trị học Nguyễn Mạnh
Hùng thuộc trường Đại Học George Mason, tiểu bang Virginia (Hoa
Kỳ), một quan sát viên kỳ cựu về quan hệ Mỹ-Châu Á và Biển Đông.
Trả lời phỏng vấn của Ban Việt Ngữ RFI, giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng
trước hết ghi nhận tính chất thị uy mạnh mẽ của việc Hoa Kỳ quyết
định điều loại oanh tạc cơ tối tân nhất của mình qua đảo Guam. Một
trong những mục tiêu hiển nhiên là răn đe Trung Quốc, cảnh cáo nước
này là không nên thiết lập một vùng nhận dạng phòng không trên Biển
Đông như từng làm trên Biển Hoa Đông. Phản ứng tức tối sau phán
quyết của Tòa Trọng Tài Thường Trực La Haye, Bắc Kinh từng dọa là
sẽ tuyên bố vùng phòng không trên Biển Đông.
Nguyễn Mạnh Hùng: … Răn đe là vì sau phán quyết đó, Hoa Kỳ đã lên
tiếng khuyến cáo tất cả các quốc gia là đừng có thêm hành động leo
thang, và phải tuân thủ luật quốc tế, nhất là tuân thủ phán quyết
của tòa án. Hoa Kỳ cũng không muốn Trung Quốc tiếp tục có những
hành động đơn phương lấn lướt…
Điểm quan trọng thứ hai là Mỹ rất quan tâm đến việc Trung Quốc có
khả năng lập ra một vùng nhận dạng phòng không. Mỹ cũng đã cảnh cáo
Trung Quốc là không nên tuyên bố một vùng nhận dạng phòng không ở
Biển Đông.
Tuyên bố kết thúc cuộc thảo luận chiến lược tay ba Mỹ-Úc-Nhật ở
Vientiane ngày 25/07 vừa qua, nhân hội nghị ngoại trưởng ASEAN,
cũng nhấn mạnh đến quyền tư do lưu thông hàng hải và hàng không,
tức là chống việc tuyên bố vùng nhận dạng phòng không ở Biển Đông.
Việc điều oanh tạc cơ B1 và B2 đến sát vùng Biển Đông thể hiện một
quan điểm cứng rắn của giới chức quân sự Hoa Kỳ. Điều đó có phần
đối lập với đường lối ngoại giao có vẻ hòa dịu mà Mỹ đang áp dụng
đối với Trung Quốc hiện nay. Tuy nhiên, theo giáo sư Nguyễn Mạnh
Hùng, các động thái của giới quân đội, và đường lối ngoại giao mềm
dẻo của Washington hiện nay không hề mâu thuẫn với nhau:
Nguyễn Mạnh Hùng:Khác biệt trong tuyên bố của giới lãnh đạo quân
đội Mỹ, nhất là giới lãnh đạo Hải Quân, với những tuyên bố của Nhà
Trắng là điều rất dễ hiểu. Phía Hải Quân chỉ nói để nói thôi, còn
phía Nhà Trắng nói thì phải làm, nên họ có thể dùng ngôn từ ngoại
giao hơn.
Riêng về phía quân đội Mỹ, họ rất quan tâm đến nhu cầu phải có ngân
sách đầy đủ để phục vụ chính sách xoay trục và họ cũng muốn thực
hiện các cuộc tuần tra bảo vệ tự do hàng hải (FONOPS) một cách mạnh
mẽ hơn, quyết liệt hơn. Do vậy, những tuyên bố gần đây của họ phản
ảnh ý hướng đó.
“Hoa Kỳ không muốn làm cho Trung Quốc mất mặt công khai”
Ngược lại, Nhà Trắng phải thận trọng hơn trong tuyên bố vì phán
quyết của Tòa Trọng Tài Thường Trực đã là một thất bại pháp lý và
ngoại giao của Trung Quốc. Một học giả thuộc Council on Foreign
Relations có nói là bây giờ Trung Quốc thua rồi nên họ có thể hung
hăng và nguy hiểm hơn. Thành ra chính quyền Hoa Kỳ không muốn làm
cho Trung Quốc mất mặt công khai, khiến họ phải phản ứng mạnh.
Nhưng điều này không có nghĩa là chính quyền Mỹ hòa hoãn. Qua đường
lối ngoại giao kín đáo (quiet diplomacy), chính quyền Obama đã có
những tín hiệu rất rõ cho Trung Quốc là không nên đi quá mức, nhất
là trong việc xây dựng và quân sự hóa bãi Scarborough vì hai lý do:
(1) Phán quyết của Tòa Trọng Tài nói rõ rằng Scarborough nằm trong
vùng đặc quyền kinh tế của Philippines; (2) Bãi Scarborough có ý
nghĩa chiến lược rất quan trọng vì rất gần Subic Bay – chỉ cách
khoảng 130 hay 140 hải lý – tức là gần căn cứ quân sự quan trọng
của Mỹ ở đấy. Thành ra Hoa Kỳ không muốn căn cứ của họ bị
vulnerable – dễ bị tổn thương (tức là bị đe dọa) từ phía lực lượng
Trung Quốc.
Chính vì tầm quan trọng này mà chính tổng thống Obama đã nói thẳng
với chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình nhân cuộc họp thượng đỉnh về
an ninh nguyên tử tháng Ba 2016 rằng việc xây cất trên đá
Scarborough sẽ có “hậu quả nghiêm trọng”. Tóm lại Mỹ không hề hòa
hoãn mà đã có thái độ rất rõ ràng.
Mỹ dứt khoát bảo vệ tự do lưu thông hàng hải
Chính sách của Mỹ, theo giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng là không muốn để
xẩy ra đụng độ không cần thiết với Trung Quốc, và khuyến khích
Trung Quốc trở thành một cường quốc có trách nhiệm. Mỹ thực hiện
một chính sách ngoại giao mềm dẻo để đạt mục đích này.
Nguyễn Mạnh Hùng:Nếu bị mất mặt, Trung Quốc có thể bị bắt buộc phải
phản ứng mạnh. Nếu họ không mất mặt thì (vấn đề) may ra có thể có
triển vọng giải quyết.
Ngay sau khi có phán quyết của Tòa Trọng Tài Thường Trực, Mỹ đã cử
bà cố vấn an ninh quốc gia là Susan Rice đi Bắc Kinh để yêu cầu
Trung Quốc đừng leo thang thêm. Gần như cùng một lúc, đô đốc Tư
Lệnh Hải Quân Mỹ Richardson cũng được cử đi Trung Quốc để - như lời
ông ấy nói – “tăng cường hiểu biết và trao đổi giữa Hải Quân hai
nước”.
Nhưng cùng lúc đó, ông Richardson cũng nói là việc bảo vệ tự do lưu
thông hàng hải là chính sách dứt khoát của Mỹ và Washington không
nhân nhượng trên vấn đề này.
Thành ra mình thấy hai đường: một mặt là ngoại giao mềm dẻo, một
mặt khác là phát ra những tín hiệu chắc chắn, và Mỹ cũng có những
động thái để ngăn chặn những động thái lấn lướt sắp tới của Trung
Quốc nếu họ muốn tiến tới.
Ví dụ, ngay sau khi phán quyết được công bố ngày 12/07/2016, những
ngày sau, liên tiếp đã có một số những thông cáo, nào là của đảng
Dân Chủ ở hai viện Quốc Hội Mỹ, nào là tuyên bố của chủ tịch Ủy Ban
Ngoại Giao, Ủy Ban Quốc Phòng, rồi tuyên bố chung của ông John
McCain với ông Dan Sullivan…
Đấy là những hành động thể hiện sự đồng thuận lưỡng đảng cũng như
của cả hai viện Quốc Hội Mỹ, nói lên quan tâm của họ đối với phán
quyết của Tòa Thường Trực, mà họ yêu cầu là phải tuân thủ.
Shamefare, lawfare và… warfare
Nhìn chung, theo giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, chiến lược Biển Đông của
Hoa Kỳ sau khi yêu sách chủ quyền quá đáng của Trung Quốc tại Biển
Đông bị phán quyết PCA phủ nhận, có thể được tóm gọn trong những
điểm sau:
(1) Phát động chiến dịch tuyên truyền ủng hộ phán quyết của quốc
tế, gây áp lưc buộc Trung Quốc tuân thủ và giải quyết tranh chấp
trên căn bản luật quốc tế và tương nhượng lẫn nhau;
(2) Tăng cường hiện diện quân sự, phát triển quan hệ quốc phòng với
đồng minh và đối tác nhằm tạo nên một cán cân lực lượng thuận lợi ở
Châu Á-Thái Bình Dương;
(3) Kín đáo tăng cường số lượng và mức độ của các cuộc tuần tra bảo
vệ an ninh hàng hải và hàng không, căn cứ phần nào vào kết quả của
phán quyết;
(4) Phối hợp với các đồng minh, chuẩn bị đối đầu với các hành động
lấn lướt của Trung Quốc;
(5) Cương quyết không cho Trung Quốc quân sự hóa đá Scarborough.
(6) Thông báo rõ cho Trung Quốc biết đâu là quyền lợi và phản ứng
của Mỹ trước khi Trung Quốc hành động.
Toàn văn bài phỏng vấn
Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, Đại Học George Mason (Hoa Kỳ)
15/08/2016 - Trọng Nghĩa Nghe
RFI: Hoa Kỳ đã liên tiếp điều oanh tạc cơ chiến lược B1 rồi B2 đến
đảo Guam. Giáo sư nhận định sao về động thái này?
Nguyễn Mạnh Hùng: Đó là một hành động để biểu dương lực lượng và
cũng trong khuôn khổ chính sách tái phối trí lực lượng của Mỹ hướng
về châu Á - Thái Bình Dương.
RFI: Phải chăng động thái điều thêm B1 và B2 đến sát hiện trường
Biển Đông, cũng nhằm răn đe Trung Quốc vốn không loại trừ việc
tuyên bố một vùng nhận dạng phòng không trên Biển Đông như là một
phản ứng phủ nhận phán quyết của Tòa Trọng Tài Thường Trực?
Nguyễn Mạnh Hùng: Có hai điểm: Điểm thứ nhất là răn đe là tại vì
sau phán quyết đó, Hoa Kỳ đã lên tiếng khuyến cáo tất cả các quốc
gia là đừng có thêm hành động leo thang, và phải tuân thủ luật quốc
tế, nhất là tuân thủ phán quyết của tòa án. Hoa Kỳ cũng không muốn
Trung Quốc tiếp tục có những hành động đơn phương lấn lướt, thì đây
là một hành động cũng trong mục đích răn đe.
Điểm quan trọng thứ hai là Mỹ rất quan tâm đến việc Trung Quốc có
khả năng lập ra một vùng nhận dạng phòng không. Mỹ cũng đã cảnh cáo
Trung Quốc là không nên tuyên bố một vùng nhận dạng phòng không ở
Biển Đông.
Tuyên bố kết thúc cuộc thảo luận chiến lược tay ba Mỹ-Úc-Nhật ở
Vientiane ngày 25/07 vừa qua, nhân hội nghị ngoại trưởng ASEAN,
cũng nhấn mạnh đến quyền tư do lưu thông hàng hải và hàng không,
nghĩa là chống việc tuyên bố vùng nhận dạng phòng không ở Biển
Đông.
RFI: Các hành động của giới quân đội Mỹ có mâu thuẫn với thái độ
nhìn chung là hòa hoãn vào lúc này của chính quyền Obama trên vấn
đề Biển Đông hay không?
Nguyễn Mạnh Hùng: Thứ nhất là sự khác biệt trong tuyên bố của giới
lãnh đạo quân đội Mỹ, nhất là giới lãnh đạo Hải Quân với những
tuyên bố của Nhà Trắng là điều rất dễ hiểu. Phía Hải Quân chỉ nói
để nói thôi, còn phía Nhà Trắng nói thì phải làm, nên họ có thể
dùng ngôn từ ngoại giao hơn.
Riêng về phía quân đội Mỹ, họ rất quan tâm đến nhu cầu phải có ngân
sách đầy đủ đểphục vụ chính sách xoay trục và họ cũng muốn thực
hiện các cuộc tuần tra bảo vệ tự do hang hải (FONOPS) một cách mạnh
mẽ hơn, quyết liệt hơn. Do vậy, những tuyên bố gần đây của họ phản
ảnh ý hướng đó.
Ngược lại, Nhà Trắng phải thận trọng hơn trong tuyên bố vì phán
quyết của Tòa Trọng Tài Thường Trực đã là một thất bại pháp lý và
ngoại giao của Trung Quốc. Một học giả thuộc Council on Foreign
Relations có nói là bây giờ Trung Quốc thua rồi nên họ có thể hung
hăng và nguy hiểm hơn. Thành ra chính quyền Hoa Kỳ không muốn làm
cho Trung Quốc mất mặt công khai khiến họ phải phản ứng mạnh.
Nhưng điều này không có nghĩa là chính quyền Mỹ hòa hoãn: Qua đường
lối ngoại giao kín đáo (quiet diplomacy), chính quyền Obama đã có
những tín hiệu rất rõ cho Trung Quốc là không nên đi quá mức, nhất
là trong việc xây dựng và quân sự hóa bãi Scarborough vì hai lý do:
(1) Phán quyết của Tòa Trọng Tài nói rõ rằng Scarborough nằm trong
vùng đặc quyền kinh tế của Philippines; (2) Bãi Scarborough có ý
nghĩa chiến lược rất quan trọng vì rất gần Subic Bay – chỉ cách
khoảng 130 hay 140 hải lý thôi – tức là gần căn cứ quân sự quan
trọng của Mỹ ở đấy. Thành ra Hoa Kỳ không muốn căn cứ của họ bị
vulnerable – dễ bị tổn thương (tức là bị đe dọa) từ phía lực lượng
Trung Quốc.
Chính vì tầm quan trọng này mà chính tổng thống Obama đã nói thẳng
với chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình nhân cuộc họp thượng đỉnh về
an ninh nguyên tử tháng Ba vừa qua rằng việc xây cất trên đá
Scarborough sẽ có “hậu quả nghiêm trọng”. Tóm lại Mỹ không hề hòa
hoãn mà đã có thái độ rất rõ ràng.
RFI: Mỹ đã trở nên hòa hoãn hơn với Trung Quốc vì không muốn Bắc
Kinh bị mất mặt quá sau khi đã mất mặt vì phán quyết của Tòa Trọng
Tài?
Nguyễn Mạnh Hùng: Vâng. Nếu họ mất mặt thì họ có thể bị bắt buộc
phải phản ứng mạnh. Nếu họ không mất mặt thì (vấn đề) may ra có thể
có triển vọng giải quyết.
Ngay sau khi có phán quyết của Tòa Trọng Tài Thường Trực, Mỹ đã cử
ngay bà cố vấn an ninh quốc gia là Susan Rice đi Trung Quốc để yêu
cầu Trung Quốc đừng leo thang thêm. Gần như cùng một lúc, đô đốc Tư
Lệnh Hải Quân Mỹ Richardson cũng được cử đi Trung Quốc để - như lời
ông ấy nói – “tăng cường hiểu biết và trao đổi giữa Hải Quân hai
nước”.
Nhưng cùng lúc đó, ông ấy cũng nói là việc bảo vệ tự do lưu thông
hàng hải là chính sách chắc chắn của Mỹ và Washington không nhân
nhượng trên vấn đề này.
Thành ra mình thấy hai đường: một mặt là ngoại giao mềm dẻo, một
mặt khác là phát ra những tín hiệu chắc chắn, và Mỹ cũng có những
động thái để ngăn chặn những động thái lấn lướt sắp tới của Trung
Quốc nếu họ muốn tiến tới.
Ví dụ, ngay sau khi phán quyết được công bố ngày 12/07/2016, những
ngày sau, liên tiếp đã có một số những thông cáo, nào là của đảng
Dân Chủ ở hai viện Quốc Hội Mỹ, nào là tuyên bố của chủ tịch Ủy Ban
Ngoại Giao, Ủy Ban Quốc Phòng, rồi tuyên bố chung của ông John
McCain với ông Dan Sullivan…
Đấy là những hành động thể hiện sự đồng thuận lưỡng đảng cũng như
của cả hai viện Quốc Hội Mỹ, nói lên quan tâm của họ đối với phán
quyết của Tòa Thường Trực, mà họ yêu cầu là phải tuân thủ.
RFI: Giáo sư nhận định sao về chiến lược “hậu PCA” của Mỹ ?
Nguyễn Mạnh Hùng: Trước hết là họ làm áp lực với Trung Quốc. Nhưng
theo tôi, việc sau đó họ sẽ hành động mạnh hơn là điều không thể
chắc chắn. Hiện nay, Mỹ đã có những hành động gọi là vừa vuốt ve,
vừa làm áp lực.
1/ Trước hết phát động một chiến dịch tuyên truyền ủng hộ phán
quyết của Tòa Án Trọng Tài, gây áp lực buộc Trung Quốc phải tuân
thủ và giải quyết tranh chấp trên căn bản luật quốc tế và tương
nhượng lẫn nhau. Người ta gọi lối hành động này là shamefare, tức
là làm cho Trung Quốc phải xấu hổ, và lawfare, tức là dùng luật
buộc Trung Quốc phải thi hành nghĩa vụ của họ.
2/ Đó là về tâm lý và tuyên truyền. Còn trên mặt thực tiễn, thì Mỹ
tiếp tục tăng cường hiện diện quân sự, phát triển quan hệ quốc
phòng với đồng minh và đội tác, tạo nên cái được lãnh đạo hai viện
Quốc Hội gọi là “tạo một cán cân lực lượng thuận lợi ở Châu Á –
Thái Bình Dương”.
3/ Điểm thứ ba là đã có đề nghị tăng cường sô lượng và mức độ của
các cuộc tuần tra bảo vệ an ninh hàng hải và hàng không, căn cứ một
phần nào vào kết quả của phán quyết. Nhưng hành động này phải được
tiến hành một cách kín đáo, không làm lộ liễu hay tuyên bố “tùm
lum”, sao cho công việc ngày càng có hiệu quả hơn.
4/ Một điểm nữa là tất cả mọi người, tất cả các think-tank đều
khuyến cáo là phải phối hợp với các đồng minh, để chuẩn bị đối đầu
với các hành động lấn lướt có thể có của Trung Quốc. Chuyện này Mỹ
đang làm.
5/ Một điểm khác là cương quyết không cho Trung Quốc quân sự hóa đá
Scarborough. Điều này vẫn chưa xẩy ra.
6/ Cuối cùng thì có rất nhiều khuyến cáo là Mỹ phải bằng mọi cách
thông báo rõ rệt cho Trung Quốc biết đâu là quyền lợi và phản ứng
của mình trước khi Trung Quốc hành động, tức là trước khi xẩy ra sự
đã rồi.
Mỹ phải nói rõ là mình sẽ làm gì, và đó là lý do tại sao có một số
người đề nghị là Mỹ phải nói rõ hơn về việc nếu Trung Quốc tấn công
bãi Scarborough, thì Mỹ phải tuân thủ hiệp ước phòng thủ với
Philippines. Điều này Mỹ chưa làm.
Một điểm thứ hai nữa là một số người, nhất là ông Joseph Bosco, một
chuyên gia về Đài Loan, cũng nói là Mỹ không nên duy trì sự mập mờ
chiến lược (strategic ambiguity) về vấn đề Đài Loan, mà phải nói rõ
rệt là nếu Trung Quốc tấn công Đài Loan, thì Mỹ sẽ có phản ứng (…)
__._,_.___
Posted by: truc nguyen <nguyentruc_us@yahoo.com>
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen