Khi phê bình đảng CS, có người mạnh miệng nhận xét “Đảng CS thực tế
chỉ là một đảng Mafia”. Ý nói đảng CS chỉ là tổ chức tội ác giết
người cướp của trên một tầm vóc quốc gia chứ chẳng còn ý thức hệ CS
như thời Liên Xô chưa tan rã. Thật ra, nói vậy không đúng và nếu có
cũng chỉ một góc cạnh “giết người cướp của”. Nếu đảng CS là
đảng Mafia thì đã sụp đổ lâu rồi
Định nghĩa đúng nhất cho trường hợp chế độ CS Trung Cộng và Việt
Nam là định nghĩa của giáo sư sử học Roderick Macfarquhar, thuộc
đại học Harvard khi ông gọi là chủ nghĩa CS hiện nay là một
loại chủ nghĩa Lenin không có Marx.
Chủ nghĩa Lenin do hai bộ phận cấu thành (1) một nhà nước chuyên
chính sắt máu và (2) tuyên truyền lý luận tư tưởng tinh vi.
Bộ phận nhà nước chuyên chính rất rõ nét và gần như ai cũng thấy,
nhưng đảng CS không tồn tại chỉ bằng nhà tù sân bắn mà còn được che
chở bằng một hàng rào lý luận tuyên truyền vô cùng tinh vi thâm
độc. Tuyên truyền là cột xương sống của chế độ CS. Như người
viết đã có dịp trình bày trong những bài trước, sau cách mạng CS Nga 1917, công việc đầu tiên Lenin là thành lập cơ
quan tuyên truyền Agitprop và trong giai đoạn đầu còn do chính ông ta đích thân lãnh đạo. Tại
Trung Cộng cũng vậy, trong đại hội đảng CS Trung Quốc lần đầu vào
năm 1921 chỉ bầu ra vỏn vẹn ba ủy viên trung ương nhưng một trong
ba ủy viên đó chịu trách nhiệm tuyên truyền.
Tầng lớp “trí thức xã hội chủ nghĩa”
Bộ máy tuyên truyền sẽ không chạy được nếu thiếu đi một tầng lớp có
học, có địa vị xã hội tự nguyện làm xăng nhớt. Thành phần đó gọi
chung là “trí thức xã hội chủ nghĩa”.
Trước khi viết tiếp, người viết xin dừng lại ở đây để bày tỏ lòng
biết ơn dành cho những trí thức chân chính và xứng đáng được kính
trọng. Họ là những người có trình độ văn hóa giáo dục cao, những
văn nghệ sĩ đang công khai hay âm thầm tranh đấu cho một nước Việt
Nam mới, tốt đẹp, tự do và dân chủ trong điều kiện và hoàn cảnh
riêng của họ. Họ không thuộc thành phần mà người viết sắp bàn.
Thành phần “trí thức xã hội chủ nghĩa” chia sẻ ba đặc điểm
chung: (1) có học, khoa bảng (2) chủ nghĩa cơ hội, (3) bồi bút, uốn
lưỡi bảo vệ đảng trung thành.
Một đại biểu xuất sắc trong tầng lớp này và có đủ ba đặc điểm vừa
nêu là bà Tôn Nữ Thị Ninh.
Bà Tôn Nữ Thị Ninh thỏa mãn đặc điểm thứ nhất dễ dàng vì bà thuộc
thành phần khoa bảng, mang họ hoàng tộc. Phần lớn thời tuổi trẻ của
bà lớn lên dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa và được đi du học tại các
trường nổi tiếng tại Pháp, Anh. Bà về nước dạy đại học Sư Phạm Sài
Gòn và từng là Phó Ban Anh Ngữ của trường.
Trong thời gian ở Pháp, bà Ninh quen biết các thành viên của phái
đoàn CS “Chính phủ lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam” và
phụ giúp công việc phiên dịch tại những buổi gặp gỡ không chính
thức của họ. Như bà kể lại trong bài báo Paris: 'Vườn ươm' lực lượng, bà “không được chứng kiến các cuộc đàm phán chính thức”, phần lớn
những gặp gỡ đều qua trung gian của các “hội yêu nước” và được bà
Nguyễn Thị Chơn, vợ ông Trần Bạch Đằng, “bồi dưỡng chính
trị”. Thành phần có học nhưng bị lá bùa “độc lập, tự do” của
CS mê hoặc tại Pháp thời đó rất nhiều như bà thừa nhận với phóng
viên Hoàng Thi trên báo Nhân Dân “tại Pháp, tôi đã tham gia phong trào phản chiến đang diễn ra rất
sôi nổi nơi đây”.
Sau 30-4-1975, bà Tôn Nữ Thị Ninh cũng chỉ sinh hoạt trong “Hội trí
thức yêu nước” như phần lớn các nhà giáo, văn nghệ sĩ thuộc “thành
phần thứ ba” ở Sài Gòn như Lý Quí Chung, giáo sư Trần Văn Tấn, giáo
sư Trần Phước Đường, nữ nghệ sĩ Phùng Há, nhà báo Tô Nguyệt Đình,
nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba chứ không đóng vai trò gì quan trọng. Thành
phần này, trong đó có bà, được đảng thưởng công bằng chuyến “tham
quan” các nước CS như Lý Quí Chung kể lại trong hồi ký của ông ta.
Đường công danh dưới chế độ CS của bà Ninh chỉ thật sự bắt đầu khi
tình cờ gặp ông Xuân Thủy năm 1978. Từ đó, trong giai đoạn giao
thời đảng đang cần người có khả năng giao tiếp với thế giới mà họ
chưa từng biết qua, và bà nắm lấy cơ hội. Không giống như
những người CS theo đuổi mục đích CS, vào tù ra khám hiến thân cho
canh bạc của cuộc đời họ, bà chỉ là một kẻ cơ hội chủ nghĩa.
Hai đặc điểm, khoa bảng và chủ nghĩa cơ hội nói trên, dù không mấy
tốt đẹp, cũng chỉ có tính cách cá nhân và không phải là tội ác, đặc
điểm bồi bút trung thành và uốn cong ba tấc lưỡi để bảo vệ đảng CS
của bà Ninh mới thật sự là một tội ác trí thức vì đã gây tác hại
đến nhiều người. Dưới đây là vài ví dụ chứng minh bà Ninh bẻ cong
ngòi bút.
Bà Tôn Nữ Thị Ninh và nguyên tắc dân chủ kiểm soát và cân bằng
(checks and balances)
Trong Tạp Chí Cộng Sản số tháng 6, 2007, bà Tôn Nữ Thị Ninh
viết về tình trạng tham nhũng tại Việt Nam: “Cần có một cơ chế "đối trọng" (phương Tây gọi cơ chế này là checks
and balances). Đối trọng của ta là trong phạm vi chế độ, là sự kiểm
tra giám sát của các đoàn thể quần chúng, chứ không phải là đối
trọng về chính trị. Quốc hội có vai trò, tư pháp cũng phải độc lập,
đoàn thể phải vào cuộc, nếu không hệ thống chính trị của ta sẽ
không có cơ chế tự điều tiết.”
Hẳn nhiên, với trình độ giáo dục cao và tiếp cận nhiều với sinh
hoạt chính trị dân chủ Âu Châu trước đây, bà Ninh biết rõ khái niệm
kiểm soát và cân bằng (checks and balances) nhằm sự kiểm soát
lẫn nhau để giữ sự cân bằng và công bằng giữa các ngành trong các
chế độ dân chủ pháp trị. Nguyên tắc này ra đời nhằm giới hạn quyền
hành của chính phủ (hành pháp) thường rất dễ bị lạm dụng. Sự đối
trọng giữa các ngành trong cơ chế chính trị chỉ hữu hiệu khi các
ngành đó có được sự độc lập về quyền hạn và trách nhiệm. Một sinh
viên lấy lớp chính trị học nhập môn cũng nắm vững định nghĩa căn
bản đó.
Thế nhưng bà uốn cong định nghĩa “checks and balances” giữa các
ngành trong chế độ dân chủ pháp trị thành một khái niệm giữa quần
chúng (không có tiếng nói) và nhà nước (nắm hết quyền lực). Tại
Việt Nam ai đối trọng với ai, ai kiểm soát ai và ai cho phép tạo
nên sự cân bằng quyền lực trong hệ thống chính trị bị chỉ đạo bởi
một đảng duy nhất là đảng Cộng sản?
Một người có hiểu biết căn bản nào cũng trả lời được, dưới chế độ
CS không ai, không một tập thể, không một thành phần nhân dân nào
đứng trên quyền lực của đảng CS. Thời gian 2006 bà Ninh là “Đại
biểu Quốc hội” đơn vị Vũng Tàu và hơn ai hết bà biết chức “Đại biểu
Quốc hội” của bà chẳng phải do người dân Vũng Tàu nào tự nguyện bầu
bà lên mà chỉ là hư danh do đảng CS trả công cho bà.
Bà Tôn Nữ Thị Ninh chống đối Bob Kerrey
Theo phóng sự điều tra của Gregory L. Vistica trên New York Times phát hành ngày 25 tháng Tư, 2001, vào đêm 25 tháng Hai, 1969, đội
SEALs (đơn vị đột kích tinh nhuệ của hải quân Mỹ viết tắt của chữ Sea, Air and Land Teams) dưới quyền chỉ huy của Trung Úy Bob Kerrey, 25 tuổi, tiến vào
làng Thạnh Phong với mục đích tiêu diệt một phiên họp của Việt Cộng
với sự tham gia của một lãnh đạo quân sự. Sau khi thanh toán
mục tiêu thứ nhất bằng dao để khỏi lộ mục tiêu, đơn vị SEALs bị
trong làng bắn ra. Với tin tức tình báo nhận được, đội SEALs đinh
ninh một phiên họp của lãnh đạo CS cao cấp đang diễn ra và đã bắn
trả quyết liệt. Đừng quên, lúc đó đã sau 9 giờ tối trong một
đêm không trăng tại ngôi một làng hẻo lánh tối tăm chứ không phải
trưa ban ngày giữa đồng rộng hay đường lớn để có thể nhận diện dễ
dàng. Bob Kerrey kể lại ông ta không thấy ai hết. Khi phản công
chấm dứt, toán SEALs tiến vào các chòi lá và hình ảnh mà Bob Kerrey
sẽ nhớ đến giờ chết là không có một chỉ huy Việt Cộng nào mà chỉ
toàn là thường dân, đàn bà và trẻ con bị giết. Tuy nhiên,
Gerhard Klann, một đội viên SEALs dưới quyền Kerrey kể khác
rằng trong chòi lá thứ nhất không chỉ có đàn ông mà còn có đàn bà
và trẻ em, và chính Bob Kerrey không những ra lịnh mà còn tham gia
vào việc giết những người trong chòi lá thứ nhất. Lời kể của
Klann trùng hợp với kể của nhân chứng Việt Nam Pham Tri Lanh.
Bob Kerrey không đồng ý với Klann nhưng nhận lỗi lầm với tư cách
chỉ huy. Các đội viên khác có người ủng hộ lời kể của Bob Kerrey và
có người từ chối trả lời. Nói chung các lời kể rất rời rạc,
trước sau không thống nhất. Kerrey nhắc lại nhiệm vụ chính của các
toán SEALs là tiêu diệt một mục tiêu được giao phó và nhiệm vụ của
đội SEALs vào làng Thạnh Phong đêm đó là tiêu diệt chứ không phải
bắt tù binh.
Sau khi bị thương và giải ngũ về nhà, Kerrey kể lại thảm sát Thạnh
Phong cho mẹ nghe và mẹ ông ta khóc.
Với nhiều người khác, biến cố là một tai nạn giết lầm, đổ thừa cho
tình báo, cho cấp chỉ huy, cho chiến tranh và rồi ăn ngon ngủ kỷ.
Nhưng với Bob Kerrey, lương tâm ông bị cắn rứt và đã làm rất
nhiều trong lãnh vực giáo dục để xoa dịu vết thương giữa hai dân
tộc cũng như đau đớn tinh thần của riêng ông. Với kinh nghiệm chín
năm làm chủ tịch của New School University ở New York, ông hy vọng
sẽ áp dụng những vốn liếng đó vào việc lãnh đạo Fulbright
University Vietnam và nâng trường lên đẳng cấp quốc tế.
Ngoại trưởng Mỹ John Kerry cũng nhấn mạnh yếu tố chuyên môn kết hợp
với tình cảm cá nhân trong diễn văn đầy tinh thần hòa giải của ông
khi giới thiệu Fulbright Vietnam. Bob Kerrey với kinh nghiệm
lâu năm trong ngành giáo dục, một cựu Thượng Nghị Sĩ, cựu ứng cử
viên tổng thống, nhà chính trị có quan hệ rộng rãi với chính giới
Hoa Kỳ và gắn bó tinh thần với Việt Nam xứng đáng để lãnh đạo
Fulbright University Vietnam.
Thay vì thuận theo tinh thần hòa giải được khơi dậy trong diễn văn
của Ngoại trưởng John Kerry và mở rộng hơn cánh cửa giáo dục cho
các thế hệ Việt Nam, máu cơ hội ”chống Mỹ cứu nước” trong bà Tôn Nữ
Thị Ninh sôi sục lên và bà phán: “Ông Bob Kerrey là người đã trực tiếp tham gia vào cuộc thảm sát
thường dân vô tội, phụ nữ, trẻ em, người già tại thôn Thạnh Phong
vào tháng 2/1969. Điều này không thể chối cãi và chính ông Kerrey
cũng thừa nhận. Có thể nhìn nhận vấn đề ở nhiều mức độ khác nhau,
cả phía Việt Nam và phía Mỹ. Nhưng một điều chắc chắn, sự việc đó
là đủ để kết luận Bob Kerrey, nói theo cách nhẹ nhất, hoàn toàn
không thể giữ vị trí Chủ tịch Đại học Fulbright Việt Nam. Và cũng
không thể nhân danh tương lai mà bỏ qua sự thật đó. “
Khi nhắc đến câu “không thể nhân danh tương lai mà bỏ qua sự thật”, không biết bà có nhìn quanh thử mình đang sống ở đâu không. Bà
đang sống trong một đất nước mà nơi đó sự thật chỉ là chiếc bánh
tuyên truyền rẻ tiền và hư thối đến nỗi một đứa bé đói khát cũng
không thèm cầm lấy. Chắc bà không lạ gì những nhãn hiệu “Nhà Xuất
bản Sự Thật”, “Báo Sự thật” v.v.
Nếu bà thật sự quan tâm đến sự thật và căm ghét những kẻ đã giết
dân vô tội, hãy về Huế một lần trong dịp Tết để hỏi thăm đồng bào
Huế của bà những ai là kẻ giết người và những ai là người có thân
nhân bị giết, không phải 24 người mà nhiều ngàn người. Những
kẻ chôn sống nhiều ngàn dân Huế không nói tiếng Anh như Bob Kerrey
mà có một giọng nói rất giống bà.
Nếu bà quan tâm đến sự thật hãy tìm đến các “Anh hùng các lực lượng
vũ trang nhân dân” và hỏi họ đã giết bao nhiêu “Mỹ Ngụy” còn mặc tả
ở nhà hàng Mỹ Cảnh, bao nhiêu mái đầu xanh ở rạp hát Kinh Đô, bao
nhiêu em bé chết trong tay còn ôm cặp ở tiểu học Cai Lậy
v.v.. Hàng ngàn cuộc thảm sát do CS gây ra trên đất nước Việt
Nam đang cần được đưa ra dưới ánh sáng sự thật và công lý.
Bob Kerrey có lỗi với ai?
Bà Ninh phát biểu bằng một giọng trịch thượng và hằn học “Việc ông hối hận về vai trò trong vụ thảm sát Thạnh Phong tôi không
thể biết và chỉ có mình ông Kerrey biết. Không thể coi việc giữ vị
trí lãnh đạo của đại học nhiều tham vọng như ĐH Fulbright là cách
sửa sai cho những hành động trong quá khứ”. Việc bà “không thể biết” là tại bà kém thông tin nhưng cựu TNS
Bob Kerrey hay Ngoại trưởng John Kerry không cần phải báo cho
bà biết.
Người viết không binh vực cho Bob Kerrey. Bob Kerrey dù trực
tiếp ra tay, ra lịnh hay không vẫn là người có lỗi. Nhưng ông
ta chỉ có lỗi với nhân dân Việt Nam, với thân nhân những
người bị toán SEALs của ông giết chứ không có lỗi gì với đảng CS và
nhà nước CS mà bà Ninh đang cung phụng. Dước các chế độ dân chủ,
vai trò, chức năng và sự phân định giữa nhân dân và chính phủ rõ
ràng chứ không đánh lận con đen đảng cũng chính là dân tộc, đảng
cũng chính là tổ quốc như dưới chế độ CS.
Một lỗi lầm của Bob Kerrey trong chiến tranh không làm cuộc
chiến bảo vệ tự do của miền Nam mất đi chính nghĩa và cũng không
giúp đảng CSVN có chính nghĩa.
Hôm 27 tháng Năm vừa qua, trong chuyến viếng thăm Hiroshima, Nhật
Bản, TT Barack Obama bày tỏ lòng thương tiếc đối với nạn nhân bom
nguyên tử của Mỹ và cảm tình đối những người sống sót nhưng ông
không xin lỗi. Cuộc chiến chống Phát Xít Nhật là cuộc chiến chính
nghĩa. Những kẻ phải chịu trách nhiệm cho điêu tàn của nước Nhật và
chết chóc của nhân dân Nhật là lãnh đạo chế độ quân phiệt
Phát Xít Nhật thời đó chứ không phải Mỹ.
Tương tự, trong lúc không thể so sánh nỗi đau bằng một nỗi đau,
thảm sát Thạnh Phong cũng phải được nhìn từ nguyên nhân đến hậu quả
của cả cuộc chiến Việt Nam.
Cái chết của 24 người dân làng Thạnh Phong, phân tích cho cùng, cũng
không khác gì cái chết của năm ngàn người dân Huế, của 32 học sinh
trường tiểu học Cai Lậy, của 13 cô gái Thanh niên Xung phong ở Ngã
Ba Đồng Lộc, của Nguyễn Văn Thạc, của Đặng Thùy Trâm, của bao nhiêu
thế hệ thanh niên miền Bắc và nói rộng hơn của ba triệu người dân
Việt khắp hai miền do âm mưu Bolshevik hóa Việt Nam bằng bạo lực của đảng CS.
Chủ trương CS hóa Việt Nam đã được in đậm trong cương lĩnh đầu tiên
của đảng CS từ 1930 chứ không phải sau khi Mỹ đổ bộ xuống Đà Nẵng
1965. Dù Mỹ có đến hay không thì mục tiêu tối hậu của đảng
CSVN vẫn không thay đổi. Bà Ninh hãy trả lời giùm câu hỏi “Nếu đảng
CSVN không chủ trương thôn tính miền Nam bằng võ lực thì thảm sát Thạnh Phong có xảy ra không?”
Thành phần “trí thức xã hội chủ nghĩa” như bà Tôn Nữ Thị Ninh chẳng
những không đóng góp được gì vào việc làm thăng tiến xã hội, thúc
đẩy nhanh hơn cuộc cách mạng tự do và nhân bản đất nước, giúp đưa
dân tộc chúng ta vượt qua những bế tắc tư tưởng và chính trị để hội
nhập vào dòng thác tiến bộ của nhân loại, mà với khả năng bồi bút,
uốn cong ba tấc lưỡi, thành phần này đã trở thành bức tường chắn
ngang tiến trình khai phóng đất nước và đó là một tội ác.
Trần Trung Đạo
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen