Bác
Sĩ Phan Huy Quát sinh năm 1908 tại Nghệ Tĩnh, tham chính nhiều lần,
từng làm Tổng Trưởng Giáo Dục, Tổng Trưởng Quốc Phòng, lần cuối cùng giữ
chức vụ Thủ Tướng Việt Nam Cộng Hòa, vào năm 1965. Ông cũng là Chủ tịch
Liên Minh Á Châu Chống Cộng, phân bộ Việt Nam, và là chủ nhiệm tuần báo
Diễn Ðàn, Sài gòn, 1972. Ngày 16 Tháng Tám 1975 Bác Sĩ Quát bị Cộng Sản
bắt do nội phản trên đường vượt biên; và chưa đầy bốn năm sau ông từ
trần trong nhà tù Chí Hòa. Bài dưới đây do ký giả kỳ cựu Nguyễn Tú, bạn
ông, và cũng là bạn tù (người đã sống bên cạnh Bác Sĩ Quát trong những
ngày tháng và giờ phút cuối cùng tại khám Chí Hòa), kể lại “như một nén
hương chiêu niệm chung.”
Trong
thời gian bị cầm tù, Bác Sĩ Quát bị bệnh gan rất nặng song Việt Cộng
không cho chữa chạy, thuốc men do gia đình tiếp tế không được nhận.
Người con trai út bị giam ở phòng bên, có thuốc cho bố, cũng không làm
sao mang sang. Khi biết ông không thể nào qua khỏi, chúng mới đem ông
lên bệnh xá. Ông chết ở đó vào ngày hôm sau, 27 Tháng Tư 1979.
Tang
gia đã được phép để mang thi hài ra quàn tại chùa Xá Lợi và phát tang ở
đấy vào ngày hôm sau, song phút chót, Hà Nội ra lệnh phải an táng ngay,
vì ngày đó, 28 Tháng Tư 1979, Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc tới Sài Gòn;
Việt Cộng sợ dư luận quốc tế – nếu biết đến cái chết bị bỏ mặc của một
cựu Thủ Tướng Miền Nam – có thể ngó tới tình trạng giam cầm của hàng
trăm ngàn người khác. Cũng bởi thế, rất ít người nghe biết đến sự đày
đọa tù nhân Phan Huy Quát cũng như cái chết trong tù của ông – bên cạnh
các trường hợp tương tự của các trí thức văn nghệ sĩ khác – của nhà cầm
quyền Hà Nội.
Chí Hòa, Sài Gòn – Một ngày cuối Tháng Tư 1979
Chí Hòa, Sài Gòn – Một ngày cuối Tháng Tư 1979
Hôm nay đến lượt bốn phòng 5-6-7-8-, gác 1, khu ED được đi tắm, giặt. Mọi người đều rộn rạo, hối hả chuẩn bị, cười hô hố. Cứ ba ngày rưỡi mới được sối nước trên thân thể hôi hám, ngứa ngáy và vò vội quần áo đã tích trữ kha khá mồ hôi, đất ghét, thì trước cái hạnh phúc nhỏ nhoi chỉ được phép hưởng hai lần mỗi tuần, ai mà không “vui vẻ, hồ hởi, phấn khởi” dù, trên lý thuyết, thời gian tắm được quy định 30 phút cứ bị cán bộ ăn bớt, chỉ còn vỏn vẹn 15 phút.
Cả
bốn phòng đã lần lượt ra hành lang ngồi xổm sắp hàng đợi cán bộ gác đến
điểm số. Lần đó, viện cớ bị cảm, tôi xin phép ở lại trong buồng. Tôi có
mục đích riêng.
Kiểm
tra xong số người ở lại mỗi buồng, cán bộ ra hiệu cho mọi người đứng
dậy, tiến về phía cầu thang. Tiếng guốc, tiếng dép khua trên cầu thang,
tiếng nói lao xao của đoàn người xa dần rồi lắng hẳn. Từ dưới sân đã bắt
đầu vọng lên tiếng sối nước ào ào, tiếng nói oang oang, tiếng cười
khanh khách thỉnh thoảng xen tiếng chửi thề thân mật, tiếng sặc nước,
tiếng rú khoái trá của các bạn tù được làn nước mát như nước lũ chẩy dồn
dập trên da. Hạnh phúc thật!
Buồng
5 chúng tôi ở đầu dãy, sát với đầu cầu thang, nơi đây đặt một cái bàn
và một cái ghế cho cán bộ gác. Chỗ tôi nằm sát hàng song sắt. Tôi đứng
dậy, nhìn về phía đầu cầu thang chỉ cách chừng ba thước rồi quay người,
đảo mắt suốt dọc hành lang. Không có bóng cán bộ. Căn phòng vơi đi 58
người như rộng ra. Hơi nồng của 60 mạng tù tích tụ từ suốt ngày và đêm
trước tự giải phóng dần dần đem lại một cảm giác thoáng khí hơn.
Căn
phòng chỉ còn lại hai người không đi tắm là tôi và một người nữa đang
nằm ở hàng giữa, sát tường, trên diện tích vỏn vẹn có 60 phân tức 2/3
của một chiếc chiếu hẹp. Ðó là khoảng không gian đã được chia rất đều
cho 60 tù nhân mà Việt Cộng đã cải cho cái danh từ mỹ miều là “trại
viên” Người đồng phòng này nằm, hai chân duỗi thẳng, hai cánh tay gập
lại trên bụng, hai bàn chân chắp vào nhau, mắt nhắm, vẻ mặt bình thản.
Ông bị bệnh đã hơn một tuần, không thuốc men. Nước da mặt đã chuyển sang
màu tai tái càng nổi bật với màu trắng của chòm râu và mái tóc. Bệnh
nhân nằm im, không cựa quậy, thân hình như đã quen đóng khung trong
không gian 60 phân của chiếc chiếu. Ông là Bác Sĩ Phan Huy Quát đã từng
là Tổng trưởng nhiều lần, chức vụ cuối cùng và cao nhất trong hoạt động
chính quyền của ông là chức Thủ Tướng Việt Nam Cộng Hòa vào Mùa Xuân
1965. Năm 1979 ông đã trên 70 tuổi.
Tôi
đảo mắt một lần nữa suốt dọc hành lang, dõng tai nghe ngóng. Vẫn không
một bóng người, không một tiếng động khả nghi nào trên tầng gác vắng
lặng. Tôi bước vội tới chiếu của Bác Sĩ Quát rồi ngồi sát bên. Bệnh nhân
vẫn nằm im, mắt nhắm, không một phản ứng nào chứng tỏ ông cảm giác thấy
có người bên cạnh. Hơi thở yếu. Bộ đồ ngủ của ông bận có cũ nhiều nhưng
không bị xô lệch. Ðôi ống quần được kéo thẳng tới cổ chân. Ðôi tà áo
được khép gọn, ôm kín thân trên. Cánh tay áo trùm tới tận cổ tay. Chẳng
phải vì cuộc sống tạm bợ trong tù rất nhiều hạn chế khắc nghiệt cộng
thêm lâm bệnh nặng đã hơn một tuần – một trường hợp bất cứ ai cũng có
thể buông thả, mặc cho thân phận nổi trôi và có thể kém đi nhiều, ít
cảnh giác về cách phục sức và tư thế – mà Bác Sĩ Quát thiếu chững chạc.
Và từ cái chững chạc này như toát lên một cái gì có vẻ nghịch lý đến độ
vừa đau đớn vừa dũng mãnh giữa thân phận con người và hoàn cảnh.
Tôi khẽ lên tiếng: “Anh Quát! Anh Quát!”Không một phản ứng của bệnh nhân. Tôi lắc nhẹ cánh tay bệnh nhân, hơi cao giọng: “Anh Quát! Anh Quát!” Vẫn không một phản ứng, tôi đưa ngón tay trỏ qua mũi bệnh nhân. Hơi thở quá yếu. Dưới sân, tiếng sối nước bắt đầu thưa dần. Thời gian tắm giặt sắp hết. Tôi không muốn mục đích khai bệnh giả của tôi bị lộ là cố ý ở lại buồng để đích thân nói ít điều cho là cần thiết với Bác Sĩ Quát và cả với tôi nữa.
Buồng 5 chúng tôi vẫn được Việt Cộng coi là một buồng “phản động” nhất trong số bốn buồng của lầu 1, khu ED vì chứa một cựu Thủ tướng, 3 cựu Tổng trưởng, nhiều sĩ quan cấp tá, một số ít dân sự “đầu chai đá, khó cải tạo, phần tử rất xấu, mất dậy.” Một buồng “ngụy nặng” nên được Việt Cộng tận tình “chiếu cố” trong sinh hoạt hàng ngày. Ngoài ra, còn phải kể tới một vài tên “ăng ten” tức chỉ điểm được cài trong buồng. Tóm lại, chúng tôi đều bị theo dõi rất sát, rất chặt. Tôi phải làm gấp. Tôi lắc mạnh hơn cánh tay bệnh nhân, cao giọng thêm: “Anh Quát! Anh Quát!”
Tôi khẽ lên tiếng: “Anh Quát! Anh Quát!”Không một phản ứng của bệnh nhân. Tôi lắc nhẹ cánh tay bệnh nhân, hơi cao giọng: “Anh Quát! Anh Quát!” Vẫn không một phản ứng, tôi đưa ngón tay trỏ qua mũi bệnh nhân. Hơi thở quá yếu. Dưới sân, tiếng sối nước bắt đầu thưa dần. Thời gian tắm giặt sắp hết. Tôi không muốn mục đích khai bệnh giả của tôi bị lộ là cố ý ở lại buồng để đích thân nói ít điều cho là cần thiết với Bác Sĩ Quát và cả với tôi nữa.
Buồng 5 chúng tôi vẫn được Việt Cộng coi là một buồng “phản động” nhất trong số bốn buồng của lầu 1, khu ED vì chứa một cựu Thủ tướng, 3 cựu Tổng trưởng, nhiều sĩ quan cấp tá, một số ít dân sự “đầu chai đá, khó cải tạo, phần tử rất xấu, mất dậy.” Một buồng “ngụy nặng” nên được Việt Cộng tận tình “chiếu cố” trong sinh hoạt hàng ngày. Ngoài ra, còn phải kể tới một vài tên “ăng ten” tức chỉ điểm được cài trong buồng. Tóm lại, chúng tôi đều bị theo dõi rất sát, rất chặt. Tôi phải làm gấp. Tôi lắc mạnh hơn cánh tay bệnh nhân, cao giọng thêm: “Anh Quát! Anh Quát!”
Bệnh nhân vẫn lặng im. Phải làm
thật gấp. Tôi xoay nghiêng mình, tỳ tay xuống chiếu, ghé miệng sát tai
Bác Sĩ Quát, cố nói thật rành rẽ: “Anh Quát! Anh Quát! Nhận ra tôi
không?” Lần này đôi mi bệnh nhân hơi động đậy rồi dướng lên, hé mở. Tôi
thoáng thấy lòng trắng mắt vàng khè. Chẳng cần phải học ngành y mới biết
bệnh gan của Bác Sĩ Quát coi mới nặng. Bệnh nhân vắn tắt thều thào:
“Anh Tú!” Tôi hơi yên tâm. Miệng lại sát tai Bác Sĩ Quát, tôi nói: “Anh
mệt lắm phải không?” Ðầu bệnh nhân hơi gật gật. Không hiểu lúc đó linh
cảm nào xui khiến, tôi cố rót vào tai Bác Sĩ Quát, giọng hơi nghẹn: “Anh
có nhắn gì về gia đình không?” Bệnh nhân cố gắng lắc đầu, mắt vẫn nhắm.
Dưới sân không còn tiếng sối nước nữa. Có tiếng các buồng trưởng dục
anh em tập hợp để điểm số lại trước khi lên buồng. Chỉ còn độ hơn một
phút. May lắm thì hai phút. Tôi dồn dập bên tai Bác Sĩ Quát: “Ai đặt
bày, lừa bắt anh? Ai phản anh? Thằng Liên phải không? Nói đi! Nói đi!”
Ðôi môi bệnh nhân như mấp máy.
Tôi
vội nhổm lên, ghé sát tai tôi vào miệng bệnh nhân. Một hơi thở khò khè,
theo sau là vài tiếng khô khốc, nặng nhọc như cố trút ra từ một chiếc
bong bóng đã dẹp hơi đến chín phần mười: “Thôi! Anh Tú ạ.” Tiếng guốc,
dép, tiếng cười, nói ồn ào đã bắt đầu từ chân cầu thang. Tôi chưa chịu
buông: “Nói đi! Anh Quát! Nói đi!” Một hơi thở một chút gấp hơn, như làn
hơi hắt vội ra lần chót! “Thôi! Thôi! Bỏ đi!” Tiếng guốc, dép, tiếng
cười, nói ồn ào đã tới quá nửa cầu thang. Tôi vội nhổm dậy, bước nhanh
về chiếu mình, nằm thẳng cẳng, vắt tay lên trán.
Ngoài
hành lang, các bạn tù hối hả, xôn xao phơi quần áo mới giặt. Vài tiếng
kỳ kèo nhau về chỗ dây phơi. Rồi như một đội quân đã chọc được phòng
tuyến địch, họ ùa vào phòng, đứng lố nhố nghẹt lối đi quá nhỏ giữa ba
hàng chiếu. Căn phòng như bị co hẹp lại. Tiếng cười đùa thưa dần khi tất
cả đã về được chiếu mình. Khói thuốc lá bắt đầu tỏa. Ðây đó tiếng rít
của vài bình thuốc lào nổi lên sòng sọc. Bây giờ thì mọi người, sau trận
tắm thỏa thuê, đã ngả lưng trên chiếu. Cả phòng lặng tiếng.
Tôi ngồi dậy, hỏi vọng qua hàng chiếu giữa, phía sát tường: “Anh Châm! Anh coi lại xem anh Quát bệnh tình hôm nay ra sao?”
Bác Sĩ Hồ Văn Châm, cựu Tổng trưởng Thông tin, Chiêu hồi và Cựu chiến sĩ, có phần chiếu liền bên Bác Sĩ Quát. Ông Châm quay về phía Bác Sĩ Quát, tư thế nằm vẫn y như trước. Cảnh lộn xộn, ồn ào, ầm ĩ vừa qua của căn phòng không làm Bác Sĩ Quát động đậy chút nào. Cái gì đã như làm tê liệt bộ phận giây thần kinh điều khiển nguồn năng ý chí con người đến nỗi Bác Sĩ Quát không phản ứng gì, hay không còn muốn phản ứng gì dù chỉ là một phác họa – trước cảnh huống bên ngoài? Một hình ảnh buồn thảm lóe lên trong tưởng tượng; nếu không phải là mùa oi bức thì một tấm nền mỏng đắp lên người dong dỏng và gầy guộc của Bác Sĩ Quát thừa đủ để đóng vai trò một tấm khăn liệm.
Bác Sĩ Hồ Văn Châm, cựu Tổng trưởng Thông tin, Chiêu hồi và Cựu chiến sĩ, có phần chiếu liền bên Bác Sĩ Quát. Ông Châm quay về phía Bác Sĩ Quát, tư thế nằm vẫn y như trước. Cảnh lộn xộn, ồn ào, ầm ĩ vừa qua của căn phòng không làm Bác Sĩ Quát động đậy chút nào. Cái gì đã như làm tê liệt bộ phận giây thần kinh điều khiển nguồn năng ý chí con người đến nỗi Bác Sĩ Quát không phản ứng gì, hay không còn muốn phản ứng gì dù chỉ là một phác họa – trước cảnh huống bên ngoài? Một hình ảnh buồn thảm lóe lên trong tưởng tượng; nếu không phải là mùa oi bức thì một tấm nền mỏng đắp lên người dong dỏng và gầy guộc của Bác Sĩ Quát thừa đủ để đóng vai trò một tấm khăn liệm.
Bác
Sĩ Châm hướng về phía tôi, lắc đầu. Tôi lên tiếng với buồng trưởng:
“Anh Phương! Báo cáo cán bộ xin đưa Bác Sĩ Quát đi bệnh xá chứ!” Phương
là hạ sĩ quan binh chủng nhẩy dù, tuổi khoảng 30. Tuy còn trẻ, tóc
Phương đã trắng xóa, có lẽ vì “xấu máu.” Anh em bèn dán cho cái nhãn
hiệu “Phương đầu bạc.” Phương lặng thinh, coi bộ ngần ngại. Nói cho ngay
suốt hơn một tuần lễ Bác Sĩ Quát lâm bệnh Phương đã mấy lần báo cáo xin
đưa Bác Sĩ Quát đi bệnh xá, nhưng đều bị từ chối. Tôi quay về phía Bác
Sĩ Châm: “Anh Châm! Nói cho Phương biết bệnh trạng của Bác Sĩ Quát đi!”
Ông Châm bèn bảo: “Anh Phương! Báo cáo cán bộ ngay đi!” Phương không
đáp, lộ rõ vẻ ngần ngại. Trong phòng bỗng nhao nhao nhiều giọng thúc
giục, gay gắt: “Báo cáo đi! Chờ gì nữa? Bệnh như vậy mà không đi báo
cáo, còn chờ gì nữa? Chờ người ta chết à?” Căn phòng đang im ắng, sống
động hẳn lên.
Nhiều
bạn đang nằm, nhóm người nhìn về phía Phương. Ðang cởi trần, Phương uể
oải đứng dậy, bận áo, ra khỏi phòng, đi về phía đầu cầu thang. Một lát
khá lâu, cán bộ gác tới, có Phương theo sau. Anh chàng cán bộ, mặt hơi
khinh khỉnh, từ bên ngoài song sắt cộc lốc hỏi vọng: “Ðâu?” Bác Sĩ Châm
nhích người qua một bên, chỉ vào Bác Sĩ Quát: “Ðây, cán bộ!” Nhìn một
lát, cán bộ quay lưng, Phương lẳng lặng về chiếu mình. Những anh em khác
lại đặt mình nằm. Căn phòng chìm trong im lặng hoàn toàn như thể hồi
hộp chờ đợi một phán quyết sinh tử của trại.
Chừng
20 hay 30 phút sau, có tiếng lao xao ở đầu cầu thang. Hai bạn tù được
làm ở bệnh xá, đem một băng ca tới cùng với cán bộ gác và một cán bộ
khác, chắc là ở bệnh xá. Căn phòng lại náo động. Mọi người đều ngồi dậy
hoặc đứng lên phần chiếu của mình.
Phương
“đầu bạc” dẫn hai anh mang băng ca đến chỗ Bác Sĩ Quát. Bệnh nhân như
mê man, tự mình không ngồi dậy được. Bốn anh em khỏe mạnh trong phòng
xúm nhau nâng bệnh nhân đặt trên băng ca. Trong lúc đó Bác Sĩ Châm vội
nhét vào một túi nhỏ vài đồ cần thiết cho Bác Sĩ Quát: Kem và bàn chải
đánh răng, vài đồ lót, thêm một bộ đồ ngủ, đũa, muỗng, chén… Băng ca
được khiêng đi. Bệnh nhân vẫn nằm, mắt nhắm, không một phản ứng. Dưới
sân, một tiếng kêu lớn! “Lấy cơm!” Căn phòng trở lại cuộc sống đơn điệu
hàng ngày của một trại tù. Lúc đó khoảng 10 giờ rưỡi.
Trưa
hôm sau, khi lấy cơm trở về, anh em thì thầm rỉ tai nhau: “Bác Sĩ Quát
chết rồi!” Cả phòng nhao nhao: “Hồi nào? Hồi nào? Chết mau quá vậy?” Một
anh đáp: “Nghe nói, hồi trưa hôm qua thì phải.”
Chỉ
một lát cáo phó miệng của các bạn tù đi lấy cơm đã lan truyền khắp khu
ED. Bữa cơm trưa hôm đó ít ồn ào hơn thường lệ. Có ai trong phòng thốt
một câu: “Bệnh như vậy, suốt hơn một tuần xin đi bệnh xá, không cho. Ðợi
gần chết mới cho thì còn gì!” Một điếu văn ngắn, gọn, hàm súc cho một
bạn tù đã nằm xuống. Một lời ngắn, gọn, hàm xúc lên án chế độ bất nhân,
ác nghiệt của Cộng Sản. Căn phòng gần như lặng đi. Không bao lâu sau bữa
cơm, cán bộ gác tới, bảo buồng trưởng thu dọn đồ của Bác Sĩ Quát. Trước
khi quay lưng, hắn còn nói với: “Nhớ làm bản kê khai, nghe không!” Ðối
với tù nhân, đó là lời công nhận chính thức cái chết của bất cứ “trại
viên” nào.
Lần này, là cái chết của một vị cựu thủ tướng.
Manh chiếu của Bác Sĩ Quát đã được gỡ đi theo giỏ đồ còn lại của ông xuống văn phòng khu. Chỗ nằm cũ của ông trơ ra phần sân xi măng đã xỉn đen thời gian, mồ hôi, đau khổ và uất ức dồn nén của hàng hàng lớp lớp thế hệ tù chính trị mà ông đã là một trong biết bao người kế tiếp bất tận. Trí tưởng tượng của ta có mặc sức tung hoành sáng tác biết bao nhiêu chuyện về trại tù và thân phận tù nhân dưới chế độ Cộng Sản, thì mảnh không gian xi măng đen kia thầm lặng mà hùng hồn nói lên còn hơn thế nữa. Những ngày kế tiếp, cái chết tức tưởi mang nhiều vẻ không rõ ràng của Bác Sĩ Quát còn là đề tài bàn tán của nhiều người trong phòng được tóm gọn trong hai chữ “nghi vấn.” Nhiều người cho rằng nếu được đi bệnh viện sớm hơn, hoặc nếu không, mà được phép biên thư về nhà để thân nhân kịp thời gửi thuốc thì có thể Bác Sĩ Quát đâu ra đến nông nỗi đó.
Manh chiếu của Bác Sĩ Quát đã được gỡ đi theo giỏ đồ còn lại của ông xuống văn phòng khu. Chỗ nằm cũ của ông trơ ra phần sân xi măng đã xỉn đen thời gian, mồ hôi, đau khổ và uất ức dồn nén của hàng hàng lớp lớp thế hệ tù chính trị mà ông đã là một trong biết bao người kế tiếp bất tận. Trí tưởng tượng của ta có mặc sức tung hoành sáng tác biết bao nhiêu chuyện về trại tù và thân phận tù nhân dưới chế độ Cộng Sản, thì mảnh không gian xi măng đen kia thầm lặng mà hùng hồn nói lên còn hơn thế nữa. Những ngày kế tiếp, cái chết tức tưởi mang nhiều vẻ không rõ ràng của Bác Sĩ Quát còn là đề tài bàn tán của nhiều người trong phòng được tóm gọn trong hai chữ “nghi vấn.” Nhiều người cho rằng nếu được đi bệnh viện sớm hơn, hoặc nếu không, mà được phép biên thư về nhà để thân nhân kịp thời gửi thuốc thì có thể Bác Sĩ Quát đâu ra đến nông nỗi đó.
Năm
1979 vẫn còn nằm trong thời kỳ mà Việt Cộng gọi là “rất căng.” Cuộc
cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam, nếu xuôi xẻ về mặt quân sự, thì về mặt
dân tình và chính trị lại chẳng xuôi xẻ chút nào. Nhiều nơi đã nổi lên
những phong trào chống đối vũ trang làm cho Việt Cộng vô cùng lo lắng
trong việc ước lượng tầm cỡ của mỗi phong trào để liệu cơ đối phó. Ngay
tại Sài gòn, năm 1976, vụ Vinh Sơn xẩy ra chưa đầy một năm sau “đại
thắng Mùa Xuân” của Việt Cộng đã làm chúng thất điên bát đảo và mặc dù
những người chủ trương và lãnh đạo vụ Vinh Sơn cùng với một số chiến hữu
đã bị Việt Cộng thẳng tay đàn áp và thanh toán, dư âm và ảnh hưởng của
vụ ấy vẫn còn kéo dài mãi tới 1979 và sau nữa. Lại thêm cuộc chiến với
Trung Cộng Mùa Xuân 1979 ở miền Bắc và cuộc chiến với Căm Bốt ở miền Nam
khởi sự từ 1978. Do đó Việt Cộng càng siết chặt kỷ luật đối với tù
chính trị. Tuy không có bằng chứng rõ ràng, nhiều người trong phòng có
cảm giác “ăng ten,” tức chỉ điểm viên, đã được tăng cường.
Cuộc
sống tiếp tục trong bầu không khí càng ngày càng ngột ngạt. Việt Cộng
“dư” lý lẽ để đối xử với tù nhân tàn nhẫn hơn, bất nhân hơn. Bác Sĩ Quát
đã lâm bệnh trong hoàn cảnh khắc nghiệt đó. Con trai út của ông là Phan
Huy Anh bị bắt cùng với ông ngày 16 Tháng Tám 1975 không được ở chung
cùng buồng, mà bị giam ở buồng 6 sát bên. Hai cha con chỉ trông thấy
nhau những lần đi tắm, tức hai lần một tuần. Khi tắm cũng không được
liên hệ với nhau. Huy Anh dù có muốn giúp bố giặt quần áo hay một vài
việc vặt vãnh cũng không bao giờ được phép. Còn nói chuyện với nhau thì
tuyệt đối cấm. Nếu bị bắt quả tang hay có người tố cáo, hai cha con sẽ
bị cúp viết thư về nhà với hậu quả kèm theo là bị cúp thăm nuôi. Ấy là
chưa kể có thể bị kỷ luật đưa đi biệt giam. Việc thăm nuôi của gia đình
cũng tách rời, riêng biệt: không bao giờ hai cha con được thăm nuôi, gặp
gỡ thân nhân cùng một lúc, cùng một ngày. Hai cha con sống sát buồng
nhau mà còn hơn hai kẻ lạ. Hai kẻ lạ còn có thể xin phép trao đổi với
nhau chút quà, nói với nhau dăm ba câu. Bác Sĩ Quát và Huy Anh luôn luôn
bị từ chối và bị theo dõi kỹ. Khi được tin bố lâm bệnh, Huy Anh nhiều
lần xin phép qua thăm và đem thuốc cũng không được. Chỉ tới phiên đi
lãnh cơm, Huy Anh mới được bước ra khỏi buồng. Những lúc đó tôi thoáng
bắt gặp ánh mắt buồn bã của Huy Anh kín đáo nhìn qua song sắt tới chỗ bố
đang nằm lịm. Tôi còn nhớ hai ngày trước khi Bác Sĩ Quát được đưa đi
bệnh xá, cán bộ gác mới cho phép Huy Anh đem thuốc cho bố, sau không
biết bao nhiêu lần năn nỉ. Huy Anh chỉ được phép đứng ngoài cửa nhìn
vọng vào. Thuốc thì do buồng trưởng nhận đưa cho Bác Sĩ Quát. Thuốc đến
quá muộn, dù chỉ là thứ thuốc thông thường trị bệnh gan. Lần “nhìn thăm”
thầm lặng được phép công khai đó dài không quá hai phút. Và đó cũng là
lần chót Huy Anh được chính thức nhìn bố qua chiều dài gần 8 thước của
căn buồng dưới đôi mắt cú vọ của cán bộ gác ngồi phía đầu cầu thang giám
sát.
Hôm Bác Sĩ Quát được khênh đi bệnh xá, Huy Anh cũng không được phép ra khỏi buồng dù chỉ để nói ít câu thăm hỏi và nhìn bố nằm thoi thóp trên chiếc băng ca. Một ngày sau khi Bác Sĩ Quát chết, Huy Anh được trại cho phép về thọ tang bố. Nhiều người trong chúng tôi hi vọng sẽ có tin thêm về tang lễ và nhất là về cái chết quá đột ngột của Bác Sĩ Quát khi Huy Anh trở lại trại. Thói quen giấu diếm, bưng bít đã trở thành một thứ siêu vi trùng trong máu của Việt Cộng, thế nên khi Huy Anh trở về, chúng tôi chẳng biết tin gì thêm ngoài việc tang lễ đã xong xuôi. Sau này có tin là Huy Anh sẽ được thả nếu “thật tâm cải tạo tốt.” Có nghĩa là không được tiết lộ bất cứ điều gì liên quan đến cái chết, đến tang lễ của bố, đến bất cứ những gì Huy Anh đã nhìn được, nghe được ở xã hội Sài Gòn bên ngoài trong thời gian được về nhà. Phải thừa nhận Việt Cộng rất “siêu” về thủ đoạn dọa nạt, nhất là đối với những ai đang bị gọng kìm của chúng siết chặt. Dù Bác Sĩ Quát đã chết, không còn là một mối lo chính trị đối với Việt Cộng, do vậy không còn cần thiết giữ Huy Anh làm con tin để đe dọa, đầy đọa tinh thần ông bố nữa, cũng phải đợi đến cuối năm 1979, Huy Anh mới được thả.
Hôm Bác Sĩ Quát được khênh đi bệnh xá, Huy Anh cũng không được phép ra khỏi buồng dù chỉ để nói ít câu thăm hỏi và nhìn bố nằm thoi thóp trên chiếc băng ca. Một ngày sau khi Bác Sĩ Quát chết, Huy Anh được trại cho phép về thọ tang bố. Nhiều người trong chúng tôi hi vọng sẽ có tin thêm về tang lễ và nhất là về cái chết quá đột ngột của Bác Sĩ Quát khi Huy Anh trở lại trại. Thói quen giấu diếm, bưng bít đã trở thành một thứ siêu vi trùng trong máu của Việt Cộng, thế nên khi Huy Anh trở về, chúng tôi chẳng biết tin gì thêm ngoài việc tang lễ đã xong xuôi. Sau này có tin là Huy Anh sẽ được thả nếu “thật tâm cải tạo tốt.” Có nghĩa là không được tiết lộ bất cứ điều gì liên quan đến cái chết, đến tang lễ của bố, đến bất cứ những gì Huy Anh đã nhìn được, nghe được ở xã hội Sài Gòn bên ngoài trong thời gian được về nhà. Phải thừa nhận Việt Cộng rất “siêu” về thủ đoạn dọa nạt, nhất là đối với những ai đang bị gọng kìm của chúng siết chặt. Dù Bác Sĩ Quát đã chết, không còn là một mối lo chính trị đối với Việt Cộng, do vậy không còn cần thiết giữ Huy Anh làm con tin để đe dọa, đầy đọa tinh thần ông bố nữa, cũng phải đợi đến cuối năm 1979, Huy Anh mới được thả.
Trong
thập niên 1940, Bác Sĩ Phan Huy Quát đã được nhiều người ở Hà Nội biết
tiếng là một lương y. Bệnh nhân của ông, cả Việt lẫn Pháp, rất tín nhiệm
ông vì tư cách đứng đắn và lương tâm nghề nghiệp rất cao của ông. Ngay
cả một số người Pháp đã chọn ông làm bác sĩ gia đình của họ, một trường
hợp rất hiếm trong y giới người Việt thời ấy. Một đề tài nghiên cứu y
học của ông có liên quan đến bệnh đau mắt của Hoàng Ðế Bảo Ðại thời đó
đã được tặng giải thưởng đặc biệt của Hoàng Ðế. Cuộc đời chính trị của
ông chỉ thực sự bắt đầu sau khi cựu Hoàng Bảo Ðại đã ký hiệp ước Vịnh Hạ
Long với Cao ủy Bollaert của Pháp ngày 8 Tháng Ba 1949. Trong chính phủ
đầu tiên của quốc gia Việt Nam do cựu Hoàng Bảo Ðại lãnh đạo, Bác Sĩ
Quát tham chính với tư cách Tổng Trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục. Sau đó ông
được bổ nhiệm vào chức vụ Tổng Trưởng Quốc Phòng. Từ giữa năm 1953 trở
đi, tình hình cuộc chiến với Việt Minh ở miền Bắc Việt Nam ngày càng tồi
tệ. Thất trận của Pháp ngày 07 Tháng Năm 1954 ở Ðiện Biên Phủ mở màn
cho Hội Nghị Genève về Ðông Dương với hậu quả là Việt Nam bị chia đôi ở
vĩ tuyến 17 do Hiệp Ðịnh Genève được ký kết giữa Pháp và Việt Minh ngày
20 Tháng Bảy 1954.
Ở
Pháp, Quốc Trưởng Bảo Ðại phong ông Ngô Ðình Diệm làm thủ tướng. Ngày 7
Tháng Bảy 54, ông Diệm về nước. Ðược ủy toàn quyền lãnh đạo Việt Nam,
ông Diệm thành lập nội các mới và kiêm nhiệm luôn Bộ Quốc Phòng.
Bác Sĩ Quát trở lại nghề cũ, mở một phòng mạch ở Dakao gần đầu cầu Phan Thanh Giản. Suốt chín năm ông Diệm cầm quyền, Bác Sĩ Quát không tham chính: ông khó có thể thuận với Tổng Thống Diệm về lề lối làm việc quá quan liêu, hống hách và độc đoán của gia đình họ Ngô. Thêm nữa ông là một thành viên trong nhóm Caravelle đã công khai đưa ra bản tuyên bố chỉ trích chế độ và đòi chính quyền Diệm thực hiện tự do, dân chủ. Cuộc đảo chính ngày 01 Tháng Mười Một 1963 do một số tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa lãnh đạo chấm dứt chế độ Ngô Ðình Diệm theo liền cái chết bi thảm của vị tổng thống và hai em ông là Ngô Ðình Nhu và Ngô Ðình Cẩn. Ðại Tướng Dương Văn Minh và Thủ Tướng Nguyễn Ngọc Thơ cầm quyền mới được ba tháng thì bị Tướng Nguyễn Khánh, tư lệnh vùng II chiến thuật, chỉnh lý ngày 30 Tháng Giêng 64. Bác Sĩ Quát được mời làm Tổng Trưởng Ngoại Giao. Ông ở chức vụ này tới khoảng Tháng Chín, 1964 rồi lại trở về phòng mạch.
Bác Sĩ Quát trở lại nghề cũ, mở một phòng mạch ở Dakao gần đầu cầu Phan Thanh Giản. Suốt chín năm ông Diệm cầm quyền, Bác Sĩ Quát không tham chính: ông khó có thể thuận với Tổng Thống Diệm về lề lối làm việc quá quan liêu, hống hách và độc đoán của gia đình họ Ngô. Thêm nữa ông là một thành viên trong nhóm Caravelle đã công khai đưa ra bản tuyên bố chỉ trích chế độ và đòi chính quyền Diệm thực hiện tự do, dân chủ. Cuộc đảo chính ngày 01 Tháng Mười Một 1963 do một số tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa lãnh đạo chấm dứt chế độ Ngô Ðình Diệm theo liền cái chết bi thảm của vị tổng thống và hai em ông là Ngô Ðình Nhu và Ngô Ðình Cẩn. Ðại Tướng Dương Văn Minh và Thủ Tướng Nguyễn Ngọc Thơ cầm quyền mới được ba tháng thì bị Tướng Nguyễn Khánh, tư lệnh vùng II chiến thuật, chỉnh lý ngày 30 Tháng Giêng 64. Bác Sĩ Quát được mời làm Tổng Trưởng Ngoại Giao. Ông ở chức vụ này tới khoảng Tháng Chín, 1964 rồi lại trở về phòng mạch.
Cuộc
đời chính trị của ông đạt tuyệt đỉnh danh vọng khi, vào giữa Tháng Hai
năm 1965, ông được Tướng Nguyễn Khánh triệu mời thành lập nội các mới.
Giữ chức thủ tướng được khoảng ba tháng thì ông trao quyền lại cho Hội
Ðồng Quân Lực vì những mâu thuẫn khó bề giải quyết giữa ông và Quốc
Trưởng Phan Khắc Sửu. Ông lui về, trực tiếp điều khiển phòng thí nghiệm y
khoa của ông ở đường Hai Bà Trưng. Hoạt động chính trị của ông thu hẹp
lại trong khuôn khổ của Liên Minh Á Châu Chống Cộng mà ông là chủ tịch
phân hội Việt Nam cho tới ngày Sài Gòn thất thủ 30 Tháng Tư 1975.
Nhưng
ngày kết liễu nền Ðệ Nhị Cộng Hòa chưa phải là ngày chấm dứt hoạt động
của Bác Sĩ Phan Huy Quát. Nó đưa hoạt động ấy sang một hướng khác, hoàn
toàn xa lạ với con người vốn dĩ trong bao năm đã quen và chỉ quen hoạt
động chính trị theo lối “chính quy,” trong “đường lối chính quy.” Và con
người thận trọng trong ông đã lao vào một trận địa mà trước kia ông
chưa từng một lần lưu tâm và nghiên cứu địa hình phức tạp, hết sức bất
thường do vậy cũng hết sức bất ngờ: địa hình của trận địa hoạt động bí
mật, mà vì tính chất của riêng nó, đòi hỏi một cách suy nghĩ khác, một
thứ thông minh khác, một loại bén nhạy khác, thậm chí đến cái can đảm
trong hoạt động bí mật cũng phải là cái can đảm khác. Vị cựu thủ tướng,
tự thân, chưa được chuẩn bị kỹ càng cho hình thái hoạt động bí mật nó có
những điều luật, những nguyên tắc đặc thù của riêng nó. Ðiều này cũng
dễ hiểu: ông chưa từng thấy có nhu cầu đó. Hoạt động chính trị của ông
từ trước không cần đòi hỏi ông có những nhu cầu đó. Vậy mà trước hoàn
cảnh đất nước rối bời đang diễn tiến trước mắt, ông đã chọn dấn thân vào
con đường mới mẻ này. Một quyết định dũng cảm của một con người ngày ấy
đã gần 70 tuổi, và chắc chắn không phải là một quyết định dễ dàng.
Sau
ngày Sai gon thất thủ 30 Tháng Tư 1975, Bác Sĩ Phan Huy Quát không đáp
“lời mời” ra trình diện của Việt Cộng được phổ biến trên đài phát thanh,
truyền hình và báo chí của chúng cho tất cả “ngụy quân, ngụy quyền”.
Liền sau khi cộng quân ào ạt tuôn vào Saigon từ hai hướng Bắc và Nam
ngày 30 Tháng Tư 1975, Bác Sĩ Quát đã dời tư thất ở đường Hiền Vương và
bắt đầu cuộc đời “du mục” trong Saigon, quyết không để cho Việt Cộng
bắt. Cứ đôi ba ngày các con ông thay phiên nhau dẫn ông đi thay đổi chỗ
trú ngụ. Sau gần ba tháng trốn tránh như thế, ông có dấu hiệu mệt mỏi.
Các con ông khuyên ông trốn “trụ” hẳn một nơi. Ông nhượng bộ, về nhà
trưởng nữ trong một hẻm khuất ở quận Phú Nhuận.
Những ai
đã sống ở Saigon sau ngày 30 Tháng Tư 1975 chắc khó quên cái không khí
ồn ào, nhộn nhạo, hỗn tạp bao trùm khắp nơi, khắp chốn của cái thành phố
hơn ba triệu người này hầu như ngày nào cũng hối hả tuôn ra đầy nghẹt
đường phố. Vẻ mừng rỡ bề ngoài vì chiến tranh đã chấm dứt không che đậy
nổi nhiều nỗi lo âu âm ỉ bên trong: Kẻ chiến thắng sẽ định đoạt số phận
của Saigon như thế nào? Thái độ nào tốt nhất để đối phó với kẻ chiến
thắng đang huênh hoang, ngạo mạn? Tùy hoàn cảnh và cương vị riêng của
mỗi cá nhân, người thì chọn lối âm thần sống ẩn, người thì mặc, muốn ra
sao thì ra, cứ sống “tự nhiên cái đã”. Nhưng đại đa số thì tính chuyện
trốn khỏi Việt Nam bằng đường biển sau khi Mỹ đã vĩnh viễn phủi tay. Một
số khác thì tính chuyện tiếp tục tranh đấu chống Cộng. Ðã manh nha
những sự thăm dò, móc nối nhau, tìm ngõ ngách trong hai lãnh vực chính
yếu: thứ nhất vượt biên, thứ nhì chống Cộng.
Hai
lãnh vực này tưởng là hoàn toàn riêng biệt, trái lại, thường xoắn vào
nhau khá chặt, bởi lẽ nhiều khi tìm đường vượt biển lại dẫn đến mối
chống Cộng, tìm đường chống Cộng lại dẫn tới mối vượt biên. Bất cứ ai
chọn dấn thân vào một trong hai lãnh vực này đều bị lôi cuốn vào cái
vòng luẩn quẩn lưỡng nguyên bi hài kịch đó. Bác Sĩ Quát không ngờ sẽ rơi
vào chính cảnh huống ấy. Trong thâm tâm, ông không muốn bỏ chạy: ông
vốn nặng tình quê hương. Nhưng gia đình ông 14 người, mặc nhiên là một
áp lực tinh thần, thầm lặng đấy, nhưng đáng kể, buộc ông không thể không
nghĩ đến sự an toàn cho vợ, con, dâu, rể và các cháu nội ngoại, nghĩa
là phải nghĩ đến chuyện vượt biên. Ngoài tình quê hương ông cũng nặng
tình gia đình không kém.
Thực
ra, khoảng một tuần trước ngày 30 Tháng Tư 1975 lịch sử, chính phủ
Trung Hoa Dân Quốc đã ra lệnh cho ông Ðại sứ của mình ở Saigon nhân danh
chính phủ mời Bác Sĩ Quát qua Ðài Bắc trú ngụ nếu như phía Mỹ chưa lo
liệu cho bác sĩ. Lúc đó Bác Sĩ Quát chưa quyết tâm ra đi nên chỉ cảm ơn
và nói sẽ liên lạc sau. Về phía Mỹ, khi hay tin Bác Sĩ Quát còn ở
Saigon, ngày 28 Tháng Tư 1975 đã liên lạc với ông, hứa đưa hai ông bà
qua Mỹ. Bác Sĩ Quát trả lời không thể nhận sự giúp đỡ quý hóa ấy nếu tất
cả gia đình ông gồm 14 người không được cùng đi. Phía Mỹ ngần ngại,
nhưng rồi cũng thuận ý muốn của Bác Sĩ Quát và cho ông một điểm hẹn.
Ðiểm hẹn này sau bị lộ. Thêm nữa ngày 29 Tháng Tư 1975, tình hình căng
thẳng tột độ, chính phủ Dương Văn Minh ra tối hậu thư buộc Mỹ phải triệt
thoái toàn bộ nhân viên D.A.O. tức bộ phận tùy viên Quốc Phòng của Mỹ
trong thời hạn 24 tiếng đồng hồ. Liên lạc giữa phía Mỹ và Bác Sĩ Quát bị
tắc nghẽn. Chuyến trực thăng cuối cùng chở người Việt tị nạn không có
Bác Sĩ Quát và gia đình.
Như
đã nói, ông nặng tình gia đình, không muốn gia đình bị khổ trong vòng
kìm kẹp của Cộng Sản và muốn gia đình sống một nơi an toàn. Ðồng thời
ông cũng không muốn làm “kẻ bỏ chạy” vì ông cũng rất nặng tình quê
hương, đất nước. Ông muốn, nếu đi thì cả nhà cùng đi. Nếu ở lại thì cả
nhà cùng ở lại. Nhưng sau hai lần lỡ dịp di tản gia đình, Bác Sĩ Quát ý
thức rất rõ hai mối tình song hành kia, tình gia đình và tình quê hương,
đất nước, khó mà dung được với nhau và chỉ có thể chọn một. Và ông đã
chọn.
Ông bằng lòng cho con trai út Phan Huy Anh đi thăm dò đường lối. Do một người bạn của Huy Anh giới thiệu, Bác Sĩ Quát thuận gặp một người tên Nguyễn Ngọc Liên. Liên tự xưng là một thành viên quan trọng của một tổ chức chống Cộng nhận nhiệm vụ bắt liên lạc với Bác Sĩ Quát, mời ông gia nhập tổ chức và nơi tổ chức có thể giúp gia đình ông vượt biên. Bác Sĩ Quát đồng ý về đề nghị thứ hai của Liên. Còn về đề nghị gia nhập tổ chức, ông nói sẽ có quyết định sau khi gặp người đại diện có thẩm quyền của tổ chức. Ðôi bên đồng thuận. Gia đình Bác Sĩ Quát gồm bà Quát, các con, cháu hơn mười người được dẫn đi trước xuống Cần Thơ, ở lại đó hai ngày. Hôm sau lên xe đi tiếp, dọc đường bị chận lại, đưa về khám Cần Thơ. Cả nhà biết là đã bị mắc lừa. Một tuần sau bị giải về trại giam Chí Hòa, Saigon. Bà Quát, tuy tuổi đã cao và mắc bệnh đau tim, vẫn bị biệt giam, điều kiện sinh hoạt rất khắc nghiệt. Do con, cháu bà năn nỉ mãi, Việt Cộng cho phép một cháu ngoại gái của bà mới 12 tuổi qua ở biệt giam để chăm sóc bà. Ðược mấy tháng, vì tình trạng sức khỏe ngày càng xấu đi, bà Quát được đưa ra ở phòng tập thể với các con cháu. Ðược hơn một năm, có lẽ vì xét thấy gia đình bà Quát đại đa số là giới nữ và khai thác cũng không thêm được gì, Việt Cộng bèn thả hết. Riêng người con rể còn bị giữ lại, đưa đi trại cải tạo Hàm Tân, gần mười năm sau mới được thả.
Ông bằng lòng cho con trai út Phan Huy Anh đi thăm dò đường lối. Do một người bạn của Huy Anh giới thiệu, Bác Sĩ Quát thuận gặp một người tên Nguyễn Ngọc Liên. Liên tự xưng là một thành viên quan trọng của một tổ chức chống Cộng nhận nhiệm vụ bắt liên lạc với Bác Sĩ Quát, mời ông gia nhập tổ chức và nơi tổ chức có thể giúp gia đình ông vượt biên. Bác Sĩ Quát đồng ý về đề nghị thứ hai của Liên. Còn về đề nghị gia nhập tổ chức, ông nói sẽ có quyết định sau khi gặp người đại diện có thẩm quyền của tổ chức. Ðôi bên đồng thuận. Gia đình Bác Sĩ Quát gồm bà Quát, các con, cháu hơn mười người được dẫn đi trước xuống Cần Thơ, ở lại đó hai ngày. Hôm sau lên xe đi tiếp, dọc đường bị chận lại, đưa về khám Cần Thơ. Cả nhà biết là đã bị mắc lừa. Một tuần sau bị giải về trại giam Chí Hòa, Saigon. Bà Quát, tuy tuổi đã cao và mắc bệnh đau tim, vẫn bị biệt giam, điều kiện sinh hoạt rất khắc nghiệt. Do con, cháu bà năn nỉ mãi, Việt Cộng cho phép một cháu ngoại gái của bà mới 12 tuổi qua ở biệt giam để chăm sóc bà. Ðược mấy tháng, vì tình trạng sức khỏe ngày càng xấu đi, bà Quát được đưa ra ở phòng tập thể với các con cháu. Ðược hơn một năm, có lẽ vì xét thấy gia đình bà Quát đại đa số là giới nữ và khai thác cũng không thêm được gì, Việt Cộng bèn thả hết. Riêng người con rể còn bị giữ lại, đưa đi trại cải tạo Hàm Tân, gần mười năm sau mới được thả.
Về
phần Bác Sĩ Quát và con trai út của ông là Huy Anh thì được tên Liên
đưa đi tạm trú tại một căn nhà kín đáo ở Chợ Lớn. Hai ngày sau, theo kế
hoạch, tên Liên đưa Bác Sĩ Quát và Huy Anh ra khỏi Saigon. Khi xe ô-tô
tới một điểm hẹn vắng vẻ thuộc tỉnh Biên Hòa thì đã có một xe ô-tô khác
đậu bên đường, nắp ca pô mở sẵn theo mật hiệu đã quy định. Xe chở Bác Sĩ
Quát và Huy Anh dừng lại. Một toán người đi tới, vây quanh xe, rút súng
hăm dọa. Bác Sĩ Quát biết mình bị lừa. Ông và Huy Anh được giải về Bộ
Tư lệnh Cảnh Sát, đường Võ Tánh, Saigon. Hôm đó là ngày 16 Tháng Tám
1975, khởi đầu cuộc thử thách chót trong đời vị cựu Thủ tướng. Một cuộc
thử thách không giống bất cứ một thử thách nào ông đã đương đầu trước
kia. Một cuộc thử thách mà chủ đích của Việt Cộng nhằm hạ nhục con người
chỉ chấm dứt sau khi vị cựu Thủ tướng đã vận tất cả năng lượng vật chất
và tinh thần ném hết vào cuộc đấu tranh cuối cùng của ông, lần này mới
thực là mặt đối mặt với quân thù với không biết bao nhiêu căng thẳng,
gay go về nhiều mặt. Cuộc đấu tranh riêng lẻ mà ông chưa từng có một ý
niệm và không bao giờ ngờ có ngày phải tiến hành trong đơn độc, đã kết
thúc vào trưa ngày 27 Tháng Tư 1979, đúng ba hôm trước ngày Kỷ niệm
Saigon thất thủ.
Cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát đã vĩnh viễn nằm xuống sau ba năm, tám tháng đấu tranh không nhượng bộ trong gọng kìm Việt Cộng.
Ngày 30 Tết, năm Mậu Ngọ (dương lịch: 1978)
Cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát đã vĩnh viễn nằm xuống sau ba năm, tám tháng đấu tranh không nhượng bộ trong gọng kìm Việt Cộng.
Ngày 30 Tết, năm Mậu Ngọ (dương lịch: 1978)
Gần
một tháng trước Tết Mậu Ngọ tôi bị chuyển về phòng 1, gác 1, khu BC. Ba
phòng 2, 3, 4 bỏ trống. Chỉ riêng phòng 1 có “khách hàng”. Bác Sĩ Quát
và tôi gặp lại nhau ở đó. Trong mấy ngày Tết, kỷ luật nới lỏng, mọi
người được đi lại thăm bạn bè ở các phòng khác, gác khác trong cùng một
khu. Bác Sĩ Quát và tôi không ra khỏi gác 1. Chúng tôi thường đi bộ dọc
hành lang trống vắng vẻ, Bác Sĩ Quát bắt nhịp đi theo tiếng chống nạng
của tôi lúc đó chân bị tê liệt. Mấy ngày Tết quả là một dịp hiếm có để
có thể nói với nhau nhiều chuyện, khỏi sợ bị để ý hay soi mói quá đáng.
“Ăng ten” cũng phải ăn Tết chứ! Bác Sĩ Quát đã tóm lược cho tôi nghe
cuộc “phiêu lưu” của ông và gia đình. Tôi có hỏi ông về thời gian ông
giữ tại Bộ Tư lệnh Cảnh sát, đường Võ Tánh. Ông kể:
“Chúng
bắt tôi viết bản tự khai tất cả những gì tôi làm khi tôi giữ chức Thủ
tướng. Bản viết của tôi không dài quá một trang tôi viết vắn tắt là
trong thời gian tôi ở cương vị Thủ tướng, tôi lãnh đạo việc nước, tôi
chỉ đạo cuộc chiến chống Cộng. Tất cả mọi cấp, từ cấp thấp nhất, đến cao
nhất gần gũi với Thủ tướng ở mọi ngành quân, dân, chính đều làm việc
theo chỉ thị và mệnh lệnh của tôi. Một mình tôi trách nhiệm. Chúng không
bằng lòng, bắt tôi viết lại. Tôi viết y như trước. Cù cưa như vậy đến
hơn một tháng, gần hai tháng. Chúng bèn chuyển sang thẩm vấn. Hỏi câu
nào tôi trả lới vắn tắt: Tôi trách nhiệm. Chúng đủ trò áp lực như anh
biết đấy. Sau đó, để bớt căng thẳng, tôi nhận viết. Vả lại, thú thực lúc
đó nhịp tim đập của tôi loạn xạ đã nhiều ngày, và tôi không có thuốc
trợ tim. Tôi cảm thấy chóng mệt. Tôi cứ từ từ viết được hơn 70 trang,
trong đó tôi nêu một số nhận định về thời cuộc, đưa ra một số đề nghị
kiến thiết quốc gia. Trên trang nhất, tôi đề tên người nhận văn bản của
tôi là Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Mặt trận Giải phóng Miền Nam. Chúng bắt
tôi xóa, chỉ được viết là bản tự khai. Tôi không chịu. Sau cùng chúng
cũng nhận tập viết của tôi.”
Tôi hỏi Bác Sĩ Quát: “Anh có tin là chúng chuyển tập viết của anh tới Nguyễn Hữu Thọ không? – Tôi ngờ lắm. Ông đáp. Nhưng không sao. Tôi mượn cớ đề tên Nguyễn Hữu Thọ để ngầm bảo chúng rằng tôi không biết tới Hà Nội trong khi tất cả chúng ta đều rõ là Nguyễn Hữu Thọ và Mặt trận Giải phóng Miền Nam chỉ là công cụ của Hà Nội và Hà Nội thừa biết điều đó hơn ai hết.”
Tôi bật cười, Bác Sĩ Quát cũng cười theo. Chúng tôi hiểu nhau. Trong buồng có một vài bạn tù đứng đắn, chúng tôi có thể nói chuyện thẳng thắn, cởi mở, không nghi ngại. Tôi nhớ một lần, vẫn trong dịp Tết Mậu Ngọ, chúng tôi năm người đứng nói chuyện gần ở một góc hành lang, câu chuyện loanh quanh thế nào mà dẫn đến việc một bạn tù hỏi Bác Sĩ Quát về một vài cộng sự viên thân cận nhất của ông mà ông thật tâm tác thành cho: “Có thật hay không, tiếng đồn có người đá ngầm anh khi có dấu hiệu anh trên đà xuống dốc?” Bác Sĩ Quát mỉm cười, trả lời, giọng bình thản: “Tôi đã có nhiều dịp gần cụ Trần Trọng Kim khi sinh thời cụ. Tôi nhớ mãi một lời cụ dậy: sống ở đời phải cho nó chững. Tôi thường kể lại cho các con, cháu trong nhà nghe lời của cụ Trần, kẻo uổng.” Câu nói của Bác Sĩ Quát không trả lời thẳng vào câu hỏi của anh bạn. Nhưng có vẻ như mấy bạn biết thưởng thức câu trả lời đó vì họ cười ha hả.
Tôi hỏi Bác Sĩ Quát: “Anh có tin là chúng chuyển tập viết của anh tới Nguyễn Hữu Thọ không? – Tôi ngờ lắm. Ông đáp. Nhưng không sao. Tôi mượn cớ đề tên Nguyễn Hữu Thọ để ngầm bảo chúng rằng tôi không biết tới Hà Nội trong khi tất cả chúng ta đều rõ là Nguyễn Hữu Thọ và Mặt trận Giải phóng Miền Nam chỉ là công cụ của Hà Nội và Hà Nội thừa biết điều đó hơn ai hết.”
Tôi bật cười, Bác Sĩ Quát cũng cười theo. Chúng tôi hiểu nhau. Trong buồng có một vài bạn tù đứng đắn, chúng tôi có thể nói chuyện thẳng thắn, cởi mở, không nghi ngại. Tôi nhớ một lần, vẫn trong dịp Tết Mậu Ngọ, chúng tôi năm người đứng nói chuyện gần ở một góc hành lang, câu chuyện loanh quanh thế nào mà dẫn đến việc một bạn tù hỏi Bác Sĩ Quát về một vài cộng sự viên thân cận nhất của ông mà ông thật tâm tác thành cho: “Có thật hay không, tiếng đồn có người đá ngầm anh khi có dấu hiệu anh trên đà xuống dốc?” Bác Sĩ Quát mỉm cười, trả lời, giọng bình thản: “Tôi đã có nhiều dịp gần cụ Trần Trọng Kim khi sinh thời cụ. Tôi nhớ mãi một lời cụ dậy: sống ở đời phải cho nó chững. Tôi thường kể lại cho các con, cháu trong nhà nghe lời của cụ Trần, kẻo uổng.” Câu nói của Bác Sĩ Quát không trả lời thẳng vào câu hỏi của anh bạn. Nhưng có vẻ như mấy bạn biết thưởng thức câu trả lời đó vì họ cười ha hả.
Sau
Tết, chúng tôi bị chuyển sang phòng 5, gác 1, khu ED. Ðược vài hôm,
phòng nhận thêm một tù nhân từ biệt giam qua. Người này, khi nhận thấy
Bác Sĩ Quát thì tỏ vẻ lúng túng, ngượng ngập. Có chi lạ đâu? Hắn là
Nguyễn Ngọc Liên, người mời chèo Bác Sĩ Quát vào khu để rồi rơi vào bẫy
sập ở Biên Hòa. Trong phòng ngoài Bác Sĩ Quát và tôi, không một ai khác
biết mối liên hệ giữa Bác Sĩ Quát và hắn. Bác Sĩ Quát cư xử rất tự
nhiên, không tỏ vẻ gì khó chịu bực tức, nóng nẩy. Riêng tôi cũng không
để lộ cho tên Liên rõ là tôi biết chuyện của hắn. Cuộc sống ở Chí Hòa
đơn điệu, buồn tẻ, ngột ngạt.
Ngày
này sang ngày khác, mọi người như chết đi trên 2/3 manh chiếu của mình.
Không bao giờ tôi nghe thấy Bác Sĩ Quát thốt lên dù chỉ nửa lời than
van về số phận của mình hay của gia đình về sự mất mát tài sản mà Việt
Cộng đã tịch thu toàn bộ chỉ để lại cho ông hai bàn tay trắng. Ông sống
lặng lẽ, trầm ngâm, kín đáo. Nhiều lần, cán bộ Việt cộng cố ý công khai
làm nhục ông trước mặt mọi người. Ông giữ im lặng, cái im lặng kẻ cả.
Không ai nhận thấy ở ông một vẻ gì kiêu kỳ, của một người đã từng giữ
những chức vụ cao sang trong chính quyền cũ.
Ông
biết hòa mình một cách đúng mức. Với anh em cùng cảnh ngộ và cái đúng
mức không gượng ép ấy tự nhiên bảo vệ tư thế riêng của ông bằng một
khoảng cách mà chẳng ai dám nghĩ muốn vượt qua. Ngay đối với tên Liên mà
nhiều yếu tố trong vụ Biên Hòa đủ để được xứng đáng nhãn hiệu “tên phản
bội, tên lừa bịp”, ông vẫn giữ được cách lịch sự bao dung buộc kẻ kia
tự mình phải có thái độ ăn năn, kính cẩn đối với ông. Thế nên tôi rất
hiểu tâm địa ông khi ông thều thào: “Thôi! Bỏ đi!” để trả lời câu hỏi
dồn ông về tên Liên bên chiếu bệnh. Ông biết vì ông mà vợ, con, cháu ông
đang dũng cảm chịu khổ, chịu nhục, chịu thiếu thốn ở khu phụ nữ. Ông
biết một cháu nội gái của ông, con gái đầu lòng của Huy Anh, mới ba
tháng đã “được” Việt cộng bỏ tù vì bố mẹ và đang thiếu sữa.
Ông
biết chừng nào Việt Cộng chưa bẻ gãy được ý chí đối kháng thầm lặng của
ông thì gia đình ông, đa số là phụ nữ và con nít vần là những con tin
hữu hiệu trong tay Việt Cộng dùng làm lợi khí đe dọa, đầy đọa tinh thần
ông, nghiền nát những gì là nhân tính trong ông, buộc ông phải thốt lên
một lời quỵ lụy quy hàng, Nhưng ông đã đứng được đầu gió.
Vì ông đã cứng.
Vì ông đã cứng.
Tôi
thường nghĩ, trong suốt cuộc đời tham chính, thành tựu của Bác Sĩ Phan
Huy Quát có ý nghĩa lớn lao nhất, có ích cho quốc dân nhất, do đó quan
trọng vào bậc nhất vì trực tiếp liên quan sâu sắc nhất đến tiền đồ tổ
quốc, là ông đã giành được chủ quyền cho ngành giáo dục Việt Nam, khi
ông được Cựu Quốc Trưởng Bảo Ðại phong ông làm Tổng Trưởng Bộ Giáo Dục
trong chính phủ đầu tiên của Quốc gia Việt Nam mới được Pháp thừa nhận
nền độc lập. Do lòng trí kiên nhẫn, thái độ khéo léo, mềm dẻo nhưng
không thiếu cương quyết trong thương thảo rất khó khăn, nhiều khi đến độ
rất căng thẳng với phái đoàn Pháp mà một số thành viên lại là thầy học
cũ của ông ở Ðại học Y khoa Hà Nội. Ông đã thuyết phục được phía Pháp
trao trả Việt Nam trọn quyền của ngành giáo dục. Ông đã đặt nền móng
vững chắc cho việc dùng Việt ngữ là ngôn ngữ chính trong mọi giáo trình,
mở đầu kỷ nguyên cải cách giáo dục toàn diện từ tiểu học, qua trung
học, lên tới đại học và trên đại học mang tính chất hoàn toàn quốc gia
mà dấu ấn căn bản và nguyên tắc đó không một ai, sau ông, có thể thay
đổi được. Pháp ngữ đã lui xuống thứ hạng như bất cứ sinh ngữ nào khác
được giảng dậy trong mọi cấp học trình. Thành quả tranh đấu gay go trong
thầm lặng nhưng thật rực rỡ của ông với Phái đoàn Pháp và công cuộc
tiến hành cải cách giáo dục của ông đã được báo chí thời đó xưng tụng và
mệnh danh một cách rất xứng đáng là “Kế hoạch giáo dục Phan Huy Quát.”
Tên tuổi ông đã gắn liền với tương lai của biết bao thế hệ nam, nữ,
thanh, thiếu niên trong lãnh vực giáo dục nó là chìa khóa của tiến bộ
văn minh và phát triển văn hóa cho đất nước, cho dân tộc.
Thành công nào có thể đẹp hơn, lâu bền hơn thành công của ông trong sự nghiệp giáo dục đào tạo con người?
Thành công nào có thể đẹp hơn, lâu bền hơn thành công của ông trong sự nghiệp giáo dục đào tạo con người?
Một
phòng lẻ loi dành cho lính gác ở ngoài vòng rào trại giam Chí Hòa đã
được quét dọn khá tươm tất. Giữa phòng, một tấm ván gỗ khổ hẹp đặt trên
đôi mẻ. Trên tấm ván một hình người nằm ngửa, chân duỗi thẳng, hằn rõ
dưới tấm mền mỏng phủ kín từ đầu xuống chân.
Thi thể Bác Sĩ Phan Huy Quát, cựu Thủ tướng Việt Nam Cộng Hòa nằm đó, cô đơn, lạnh lẽo giữa một buổi trưa hè nắng gắt, oi nồng. Cùng với tấm ván và đôi mẻ, thi thể ông là tĩnh vật trang trí độc nhất của căn phòng lính gác quạnh hiu. Chung quanh không một bóng người. Cái tĩch mịch của căn phòng như muốn thét lên mà bị nghẹn.
Tang gia được chính quyền Việt Cộng hứa cho phép quàn thi hài Bác Sĩ Quát tại chùa Xá Lợi. Ðến phút chót Việt Cộng bội hứa như chúng vẫn có thói quen đó đã trở thành quán tính. Chúng buộc tang gia phải chôn cất ngay ngày hôm sau tức là ngày 28 Tháng Tư 1979. Tìm hiểu ra mới biết ngày 28 là ngày ông Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc tới Saigon: cho đem thi hài Bác Sĩ Quát về quàn tại Chùa Xá Lợi có thể gây ra nhiều phiền phức, rối ren không lường được. Quái thật! Một chế độ luôn luôn tự vỗ ngực lớn tiếng huênh hoang ta đây “Anh hùng nhất mực” và “ra ngõ là gặp anh hùng” lại sợ đủ thứ!
Sợ từ đứa bé sơ sinh sợ đi nên phải bắt nó vào tù với mẹ nó cho chắc!
Sợ từ cái xác chết sợ đi, nên bắt chôn ngay sợ xác chết “thần giao cách cảm” với Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc thì rầy rà to. Ðám tang bị hối thúc rồi cũng chu toàn nhờ sự tận tình giúp đỡ của thân bằng, quyến thuộc.
Sau tang lễ đơn sơ, còn sót lại là nghi vấn về cái chết của vị Cựu Thủ tướng. Hồ sơ bệnh lý do Việt cộng chính thức đưa ra là “nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não cùng viêm gan siêu vi trùng”.
Hồ sơ vẫn nguyên vẹn là một nghi vấn.
Thi thể Bác Sĩ Phan Huy Quát, cựu Thủ tướng Việt Nam Cộng Hòa nằm đó, cô đơn, lạnh lẽo giữa một buổi trưa hè nắng gắt, oi nồng. Cùng với tấm ván và đôi mẻ, thi thể ông là tĩnh vật trang trí độc nhất của căn phòng lính gác quạnh hiu. Chung quanh không một bóng người. Cái tĩch mịch của căn phòng như muốn thét lên mà bị nghẹn.
Tang gia được chính quyền Việt Cộng hứa cho phép quàn thi hài Bác Sĩ Quát tại chùa Xá Lợi. Ðến phút chót Việt Cộng bội hứa như chúng vẫn có thói quen đó đã trở thành quán tính. Chúng buộc tang gia phải chôn cất ngay ngày hôm sau tức là ngày 28 Tháng Tư 1979. Tìm hiểu ra mới biết ngày 28 là ngày ông Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc tới Saigon: cho đem thi hài Bác Sĩ Quát về quàn tại Chùa Xá Lợi có thể gây ra nhiều phiền phức, rối ren không lường được. Quái thật! Một chế độ luôn luôn tự vỗ ngực lớn tiếng huênh hoang ta đây “Anh hùng nhất mực” và “ra ngõ là gặp anh hùng” lại sợ đủ thứ!
Sợ từ đứa bé sơ sinh sợ đi nên phải bắt nó vào tù với mẹ nó cho chắc!
Sợ từ cái xác chết sợ đi, nên bắt chôn ngay sợ xác chết “thần giao cách cảm” với Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc thì rầy rà to. Ðám tang bị hối thúc rồi cũng chu toàn nhờ sự tận tình giúp đỡ của thân bằng, quyến thuộc.
Sau tang lễ đơn sơ, còn sót lại là nghi vấn về cái chết của vị Cựu Thủ tướng. Hồ sơ bệnh lý do Việt cộng chính thức đưa ra là “nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não cùng viêm gan siêu vi trùng”.
Hồ sơ vẫn nguyên vẹn là một nghi vấn.
Nếu tôi biết hát, tôi sẽ cất giọng ca vừa đủ nghe tù khúc:
“Anh nằm đây,
Bạn bè anh cũng nằm đây…”
Gọi là một chút để ấm lòng người đã khuất.
Nguyễn Tú
“Anh nằm đây,
Bạn bè anh cũng nằm đây…”
Gọi là một chút để ấm lòng người đã khuất.
Nguyễn Tú
Ký
giả Nguyễn Tú, nguyên đặc phái viên chiến trường Nhật báo Chính Luận
tại Việt Nam trước 1975, cũng như của nhiều báo ngoại quốc, đã bị giam
hơn mười năm trong lao tù Cộng Sản. Ông vượt biên tới Hong Kong năm 1990
và sau đó tới Hoa Kỳ. Hiện ông cư ngụ tại vùng Hoa Thịnh Ðốn.
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen