Phạm Tín An Ninh
Tôi gặp và quen
anh trong một trường hợp khá bất ngờ, có
thể nói là hơi kỳ cục. Vợ chồng tôi đến
thăm và ở lại nhà cô con gái út hai tuần.
Cháu vừa mua được căn condo trong một khu
nhà mới xây ở thành phố Anaheim, cách Khu
Disneyland chỉ một con đường. Đêm nào, bọn
tôi cũng ra balcon ngắm pháo hoa được liên
tục bắn lên từ khu giải trí nổi danh này.
Căn nhà nhỏ khá xinh và ở trong một khu an
toàn, cô con gái út rất thích. Nhưng chỉ
sau vài hôm, cứ đến một hai giờ khuya thì
cả nhà phải thức giấc, bởi tiếng lục đục ở
căn nhà tầng trên. Âm thanh của một vật
cứng nào đó gõ xuống nền nhà. Không đều
đặn, năm ba phút một lần, dù nhẹ nhưng
cũng đủ làm buốt trong đầu.
Sáng hôm sau, cô con gái nhờ
tôi lên nói chuyện với chủ nhà, yêu cầu chấm
dứt các tiếng gõ khó chịu vào giữa khuya ấy,
để chúng tôi không bị mất ngủ, đặc biệt cô
con gái phải đi làm khá sớm.
Sau hai lần bấm chuông, một
người đàn ông mở hé cửa, gật đầu chào. Rất
may, lại là một đồng hương. Chưa nói chuyện
với chủ nhà, nhưng tôi đã thoáng hiểu được
nguyên nhân gây ra tiếng động. Ông ta chống
hai cây nạng gỗ. Mọi bực tức trong tôi bỗng
dưng biến mất, những lời “cảnh cáo” tôi dự
định sẽ nghiêm mặt nói với ông cũng tan biến
theo. Tôi lễ phép chào ông, bảo là tôi ở
tầng dưới, muốn đến thăm và làm quen với
người đồng hương láng giềng. Ông nở nụ cười,
làm rạng rỡ phần nào khuôn mặt khắc khổ, đã
có nhiều vết nhăn, một phần được che phủ bới
mái tóc dài bạc trắng. Ông mở rộng cửa mời
tôi vào nhà. Tôi hơi khó chịu với mùi khói
thuốc lá và cả mùi rượu.
-Anh ở đây một mình? Câu đầu
tiên tôi hỏi.
-Vâng, thỉnh thoảng có cô
con gái đến thăm. Cháu ở trên Riverside,
cách đây khoảng gần một giờ lái xe.
Căn nhà nhỏ một phòng ngủ,
phòng khách chưng bày đơn giản. Điều làm tôi
chú ý là hai tấm ảnh treo trên vách, phía
sau bàn ăn. Một tấm là chân dung của một
người lính, tấm kia là ảnh gia đình. Thấy
tôi chăm chú nhìn, anh cười, bảo là ảnh của
anh và vợ con anh lúc xưa. Anh chống nạng
đứng lên, như có ý mời tôi đến xem.
Tôi tròn mắt ngạc nhiên, tấm
ảnh chân dung là một sĩ quan trẻ, mang cấp
bậc thiếu tá, trông khá đẹp trai, phảng phất
nét hào hùng. Trên ngực mang khá nhiều huy
chương. Tấm ảnh kia anh chụp với người vợ
xinh đẹp và hai đứa con kháu khỉnh. Lòng
tôi bỗng chùng xuống, như vừa chạm vào một
vết thương cũ. Tôi bất giác quay người lại,
đứng nghiêm đưa tay chào:
- Xin chào niên trưởng
Anh tròn mắt bất ngờ, rồi đưa
tay ra bắt tay tôi. Sau này, tôi được biết
tấm ảnh chân dung này anh chụp sau khi được
thăng cấp thiếu tá tại măt trận Quảng Trị
tháng 10 năm 1971, khi anh đang là tiểu đoàn
phó, thay vị tiểu đoàn trưởng bị trọng
thương, chỉ huy đơn vị phá vòng vây địch,
tạo một chiến thắng lẫy lừng.
Chúng tôi trở nên đôi bạn thân
thiết kể từ hôm ấy. Hình như giữa chúng tôi
có điều gì đó cùng “tần số” với nhau. Trước
đây anh sống rất âm thầm, khép kín, không
muốn gặp gỡ tiếp xúc một ai, kể cả những
người quen biết cũ. Sau này, cứ mỗi lần đến
nhà cô con gái tôi đều ghé thăm anh, mang
theo cho anh một ít nem chua Ninh Hòa mà anh
rất thích. Anh say sưa kể cho tôi nghe một
thời hào hùng trong binh nghiệp. Anh nức nở
khi nhắc tới những vị đàn anh, những đồng
đội hào hùng đã phải hy sinh oan khiên tức
tưởi, đặc biệt trong trận chiến Hạ Lào- Lam
Sơn 719. Người được anh nhắc đến nhiều nhất,
ngưỡng phục và thương tiếc nhất là Cố Đại Tá
Lê Huấn, một vị tiểu đoàn trưởng trẻ tuổi
nổi danh, tốt nghiệp Khóa 18 VBĐL mà có một
thời anh được phục vụ dưới quyền.
Anh bảo tôi vào phòng ngủ để anh
cho xem một kỷ vật. Anh bật đèn lên tôi ngạc
nhiên khi thấy một bộ quân phục. Nhìn kỹ,
tôi nhận ra đây là một bộ quân phục tác
chiến đã cũ, có những vết sờn rách, được
giặt ủi cẩn thận và treo trong một cái tủ
kính nhỏ. Loại tủ để chưng bày. Anh mở cửa
tủ và cẩn thận lấy bộ quân phục, ôm vào
người một cách trang trọng. Đôi mắt mơ màng
như đang tìm về một quá khứ xa xăm nào đó.
Anh thốt ra môt giọng trầm buồn. Dường như
là để nói với chính anh hơn là với tôi,
người đang đứng ngay trước mặt anh:
- Đây là bộ đồ trận của anh
ấy, anh Lê Huấn.
Sau chiến thắng lẫy lừng tại
Căn Cứ O’Relly, khi tiểu đoàn anh dưới tài
chỉ huy tài ba của Trung Tá Lê Huấn đã đánh
tan một lực lượng địch cấp trung đoàn của Sư
Đoàn 304 BV, tháng 8/1970 tiểu đoàn lại đánh
một trận khốc liệt với một đại đơn vị khác
cũng của Sư Đoàn 304 BV này tại Hải Lăng,
Quảng Trị. Khi ấy anh đang là đại đội trưởng
thâm niên nhất của tiểu đoàn. Cả hơn một
trung đoàn địch, sau nhiều đợt tiền pháo
kinh hoàng đã đồng loạt xung phong nhằm tràn
ngập vị trí đóng quân của tiểu đoàn 4/1.
Trung Tá Lê Huấn rời khỏi hầm chỉ huy, đích
thân điều động đơn vị quyết chiến trước một
cuộc thư hùng sinh tử. Từng đợt địch quân bị
đốn ngã ngay trước giao thông hào, nhưng bọn
chúng như là những con thiêu thân lao vào
lửa, lớp này ngã lớp khác lại xông tới. Nhờ
sự chiến đấu kiên cường của đơn vị anh, và
đặc biệt dưới sự chỉ huy tài tình và gan dạ
của vị tiểu đoàn trưởng lừng danh, đã ngăn
chặn, tiêu hao và cầm chân địch trước khi
được những phi vụ không yểm, đánh trên đầu
địch. Những trận không kích gây thiệt hại
nặng nề cho địch nhưng cũng làm bị thương
một số binh sĩ của đơn vị, vì khoảng cách
giữa ta và địch quá gần. Anh là một trong
những người bị trọng thương hôm ấy. Trời tối
và mưa lớn, lưới phòng không dày đặc, không
tản thương được, Anh Lê Huấn ra lệnh ban
quân y mang anh vào nằm trong hầm chiến đấu
của anh Huấn để được tương đối an toàn và
băng bó chữa trị cấp thời. Thấy máu và bụi
bặm thắm đầy bộ chiến y ướt đẫm nước mưa của
anh, vị tiểu đoàn trưởng bảo người lính cận
vệ lấy bộ áo quần trong ba-lô của mình mang
đến thay cho anh. Khi tản thương về Quân Y
Viện Nguyễn Tri Phương, nhiều bác sĩ cứ
tưởng anh là Trung tá Lê Huấn, bởi bảng tên
và cả cái lon trung tá còn nguyên trên ngực
và cổ áo.
Vết thương chưa lành, nằm
trong Quân Y Viện mà lòng anh rất nôn nao
khi biết tin đơn vị tham dự cuộc hành quân
Lam Sơn 719. Một kế hoạch qui mô với sự tham
chiến của hầu hết các đơn vị chiến đấu thuộc
Vùng I: Sư Đoàn 1BB, các đơn vị Thiết Giáp,
Biệt Động Quân, cùng với các Lữ Đoàn Nhảy Dù
và TQLC. Anh khao khát được có mặt cùng đơn
vị trong trận chiến đặc biệt này, nhưng vết
thương ở chân phải là trở ngại chính để bắt
anh phải nằm lại ở đây.
Anh theo
dõi từng ngày từ khi cuộc hành quân bắt
đầu. Các tin tức không vui từ chiến
trường, những tổn thất nặng nề của quân ta
sau khi các căn cứ 31, 30 lần lượt thất
thủ. Đại Tá Thọ, Lữ Đoàn Trưởng Nhảy Dù
cùng nhiều cấp chỉ huy của ta bị lọt vào
tay giặc. Một số đã tự sát để giữ tròn khí
tiết.Từ các kế hoạch hành
quân tồi tệ mà địch quân gần như biết
trước để chuẩn bị trận địa đến việc thiếu
thống nhất ở các cấp chỉ huy đã góp phần
cho sự thảm bại. Điều đau đớn nhất đã làm
tim anh thắt lại khi nghe tin Tiểu Đoàn
4/1 của anh nhận lãnh trách nhiệm nặng nề,
làm lực lượng chặn hậu để cho Trung Đoàn
rút lui khỏi căn cứ Lolo trong tình trạng
bị bao vây nguy khốn. Anh bật khóc khi
nghe tin Trung Tá Lê Huấn, vị tiểu đoàn
trưởng trẻ tuổi tài năng đã lẫm liệt hy
sinh, và cả tiểu đoàn chỉ còn 32 binh sĩ
sống sót trở về! Anh nghĩ từ nay sẽ vĩnh
viễn không còn gặp lại người chỉ huy mà
anh ngưỡng phục và hằng mong được tiếp tục
phục vụ dưới quyền. Anh nhớ tới bộ quân
phục mà Trung Tá Lê Huấn đã đưa cho anh
thay khi anh bị trọng thương cách đây vài
tháng, anh còn chưa kịp trả lại, và bây
giờ thì không còn có cơ hội để trở về khổ
chủ. Anh quyết định giữ lấy bộ quân phục
này như một kỷ vật thiêng liêng trong cuộc
đời mình. Và sau đó dù phải trải qua bao
nhiêu thăng trầm, khốn khổ, nhất là sau
ngày nước mất nhà tan, anh vẫn luôn trân
trọng bộ quân phục mà anh nghĩ có mang hồn
thiêng của anh Lê Huấn và của cả những
đồng đội đã hy sinh.
Sau khi xuất viện, anh được bổ
sung đến một trung đoàn khác giữ chức vụ
tiểu đoàn phó. Tháng 10/ 1971 anh thăng cấp
Thiếu tá tại mặt trận. Cuối năm anh lên nắm
tiểu đoàn thay thế vị tiểu đoàn trưởng bị
thương, sau đó được theo học khóa quân
chánh. Một thời gian sau, vết thương cũ ở
chân phải tái phát. Sau khi chữa trị anh đi
khập khiễng. Hội Đồng Giám Định Y Khoa xếp
anh vào loại 2, không chiến đấu được. Được
đề nghị bổ sung về Phòng 3 Quân Đoàn, nhưng
anh xin đi làm chi khu phó cho anh tiểu đoàn
trưởng cũ, bây giờ là quận trưởng của một
quận miền núi. Quận lỵ là một tiền đồn chiến
lược, nằm tại một vị trí trọng yếu khống chế
cả con đường tiếp liệu của Cộng quân, nên
bọn chúng tìm mọi cách để san bằng. Gần cuối
năm 1974, Cộng quân mở nhiều đợt tấn công
biển người nhằm chiếm quận lỵ, vị quận
trưởng bị thương nặng. Anh đã phối hợp với
các đơn vị bạn tăng cường, trực tiếp chỉ huy
điều động cuộc phản công rất oanh liệt giữ
vững được phòng tuyến qua nhiều cuộc tấn
công qui mô của địch. Nhưng tổn thất của ta
khá nặng và đạn dược dần dà cạn kiệt, trong
lúc Cộng quân luôn được tăng cường, cuối
cùng anh phải mở đường máu, rút lui trước
khi căn cứ bị địch quân tràn ngập. Anh bị
thương nặng ở chân, điều kỳ lạ là ngay tại
vết thương cũ. Nhờ kinh nghiệm chiến trường
và hai người lính nghĩa quân rất trung thành
và khôn ngoan giúp đỡ, thay phiên cõng anh
thoát khỏi vòng vây truy lùng của địch. Anh
được đề nghị thăng cấp đặc cách lên trung
tá, nhưng sau đó bị cưa mất chân phải. Nỗi
đau đớn vì phải mất đi một phần thân thể
chưa nguôi, thì cái đau đớn tột cùng cũng
vừa ập đến: Tháng 3/75, cả Vùng I bỗng chốc
lọt vào tay Cộng sản, Sư Đoàn 1BB, đơn vị
nổi danh mà anh luôn hãnh diện phục vụ trong
gần cả một đời binh nghiệp cũng tan tành,
rồi cả miền Nam mất vào tay giặc. Những đồng
đội từng chiến đấu, một thời sống chết cùng
anh bỗng dưng tan tác như chỉ sau một cơn ác
mộng.
Mất một cái chân, nhưng anh vẫn
bị tù đày nghiệt ngã trên bảy năm trong
nhiều trại tù của bọn Cộng sản man rợ. Ra
khỏi tù anh lại mất cả gia đình. Người vợ
xinh đẹp ngày nào đã gởi đứa con gái lớn,
năm tuổi, cho bà nội già, bồng theo đứa con
trai ba tuổi, lẳng lặng sang sông về một nơi
nào đó. Gia tài một đời binh nghiệp của anh
giờ chỉ còn mỗi một bộ đồ trận, chiến y của
người chỉ huy mà anh từng kính yêu đã hy
sinh. Trước khi vào tù, anh căn dặn mẹ anh
phải giữ kỹ bộ quân phục này cho anh với bất
cứ giá nào, bởi đó là một kỷ vật quý giá
nhất còn lại của đời anh. Theo đề nghị của
mẹ, anh đồng ý cho bà tháo ra và đốt đi cái
bảng tên và cấp bậc may trên áo.
Có lẽ từ lâu lắm mới có người
chăm chú ngồi nghe, nên anh say sưa kể cuộc
đời mình. Đôi lúc sụt sùi, nước mắt tưởng đã
khô cằn, bỗng ràn rụa trên khuôn mặt khắc
khổ già nua, và từng giọt rơi xuống bộ quân
phục anh đang ôm ấp trong lòng mình.
- Sau này anh có dịp nào
gặp lại chị nhà và đứa con trai? Tôi hỏi.
- Bà đã có chồng khác từ lâu
rồi, đang sống ở Âu Châu. Tôi buồn nhưng
không trách. Ngại đụng chạm tới hạnh phúc
riêng của bà, và cả vết đau trong lòng mình
nên không muốn liên lạc. Còn đứa con trai có
sang thăm tôi hai lần, nhưng cháu vẫn nhìn
tôi xa lạ lắm. Cũng phải thôi, vì khi tôi
vào tù thì cháu chỉ mới lên ba, trong ký ức
của cháu có lưu lại một chút hình ảnh gì của
tôi đâu. Riêng con gái tôi có sang thăm mẹ
và em cháu vài lần.
Nói dứt câu, anh cúi xuống như
muốn giấu riêng nỗi xúc động.
- Anh có thường cảm thấy
cô đơn và tiếc nuối những ngày xưa?
- Cũng có chứ, nhưng lâu rồi
thành quen và gần như không còn muốn nhớ tới
nhiều chuyện cũ.
Tôi đưa tay nắm chặt bàn tay anh
thay cho một lời an ủi khó nói thành lời.
Bỗng anh ngước lên, mở to đôi mắt:
- Điều
buồn của tôi bây giờ là thấy một số trong
đám anh em mình mất đi khá nhiều sĩ khí,
có thằng còn khốn kiếp đã vì chút lợi lộc
nhỏ nhen mà chạy hùa theo giặc, nịnh bợ
thô bỉ, quên mình từng hãnh diện là sĩ
quan của những binh chủng hào hùng. Nhìn
bọn chúng múa may khóc lóc làm trò trước
mặt bọn cộng sản mà tôi muốn buồn nôn!
Tôi cười:
- Anh bận tâm tới những kẻ ấy
làm gì. Trong tập thể nào lại không có
những con sâu, tồi tệ, bán rẻ linh hồn.
Cũng có thể là những thăng điên. Nhưng đó
cũng chỉ là vài trường hợp cá biệt. Cũng như
nước Mỹ vừa có tên phản quốc Edward Snowden,
đang trốn ở Nga-Sô. Theo tôi, đại đa số anh
em mình vẫn còn giữ được tấm lòng, tình
huynh đệ và trách nhiệm với quê hương đất
nước chứ!
Bỗng đôi mắt anh sáng lên:
- Điều vui và an ủi tôi nhiều
nhất là các tổ chức gây quỹ giúp anh em
thương phế binh sống khốn khổ ở quê nhà. Đặc
biệt là các buổi Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh
thành công tốt đẹp. Thấy anh em nhà binh
mình cùng bà con tham gia hưởng ứng nhiệt
tình, tôi mừng và cảm động lắm. Ở bên nhà
các cha thuộc Dòng Chúa Cứu Thế Sài gòn cũng
đã can đảm, hết lòng an ủi và làm sống dậy
niềm tự hào của những anh em thương binh bất
hạnh, tôi cảm phục vô cùng. Có bao nhiêu
tiền dành dụm tôi đều nhờ cô con gái gởi về
phụ với các cha.
Tôi cười, biểu lộ sự đồng tình.
Định nói thêm đôi điều để khoe về những đóng
góp phần mình, bỗng nghe anh hỏi:
- Bạn
ở Âu Châu, sang Mỹ một thời gian, chắc
đã thấy trong đám anh em mình bây giờ
cũng nhiều người bon chen danh lợi. Mà
tội nghiệp thay toàn chỉ là danh hão!
Thấy mà phát ngượng! Nhiều
ông tướng ông tá có danh thời trước,
sang đây lại đầu quân làm tướng phường
tuồng cho mấy cái chính phủ tự xưng tự
diễn. Trong đó có cả những ông ngày
xưa từng là cấp chỉ huy của mình.
Ngán ngẫm thật. Giấy rách mà cũng
chẳng còn cái lề nào để mà giữ nữa!
Tôi cười. Chưa kịp nói một lời
an ủi, bỗng thấy anh sa sầm nét mặt:
- Điều
buồn nhất là thiên hạ lạm dụng bộ quân
phục một cách đến lố bịch. Đám cưới,
sinh nhật, tiệc tùng nhảy nhót mà cũng
có người mặc quân phục. Có lần tôi
thấy có ông mặc quân phục, mang cả
lon lá và đầy huy chương lên truyền
hình để quảng cáo thuốc cho một
ông thầy thuốc Nam tự nhận mình là bác
sĩ! Tôi xấu hổ và giận đến tím cả mặt.
Tối hôm ấy, tôi ôm bộ quân phục này của
anh Lê Huấn mà thấy lòng xót xa vô hạn.
Nhớ lại một câu chuyện liên
quan tới bộ quân phục đã xảy ra tại đất nước
Na-Uy, nơi gia đình tôi đang định cư, tôi kể
cho anh nghe:
- Tháng 11 năm 2004, bà
Kristin Krohn Devold, Bộ Trưởng Quốc Phòng
Na-Uy, đến viếng thăm binh sĩ thuộc các đơn
vị quân đội Na-Uy tham chiến tại Afghanistan
trong lực lượng NATO. Bà được ca ngợi là một
nữ bộ trưởng can đảm đã đến thăm binh sĩ khi
chiến trường đang ác liệt nhất. Nhưng sau
khi tin tức và hình ảnh về chuyến viếng thăm
này được chiếu trên đài truyền hình quốc gia
Na- Uy (NRK), bà bị nhiều sĩ quan và binh sĩ
Na-Uy phàn nàn, phản đối khi thấy bà mặc
quân phục từ một chiếc trực thăng bước xuống
thăm một đơn vị tác chiến Na- Uy, và cả khi
được Thủ Tướng Afghanistan, Hamid Kazai tiếp
đón tại thủ phủ Kabul. Báo chí cũng góp
phần tranh luận và tỏ ra bất bình về sự kiện
này. Hầu hết cho rằng bà chưa hề ở trong
quân đội, nên không được phép sử dụng quân
phục, dù trong bất cứ chức vụ hay hoàn cảnh
nào. Những quân nhân cho rằng bộ quân phục
còn có tính thiêng liêng, bởi nhiều chiến
binh đã hy sinh trong bộ quân phục này. Mặc
dù bà và một số cơ quan chính phủ lên tiếng
biện minh, viện lý do vì sự an toàn cho bà
trong một hoàn cảnh đặc biệt, nhưng vẫn
không được chấp nhận. Cuối cùng bà phải bắt
buộc lên tiếng chính thức xin lỗi quân đội
và cả dân chúng Na-Uy về điều này.
Nghe tôi kể xong, anh đưa bộ quân
phục đang cầm trong tay lên như để khẳng
định một điều gì.
- Đúng
như thế, bộ quân phục đối với tôi luôn là
một kỷ niệm thiêng liêng. Có biết bao đồng
đội của tôi hy sinh đã được liệm với bộ
quân phục thấm đẫm máu đào của họ. Xin
đừng lạm dụng và làm đau lòng họ.
Sau lần
gặp gỡ đầu tiên này, tôi còn đến thăm anh
một vài lần nữa, và bảo cô con gái, “bác ấy là người
tốt, một sĩ quan đáng kính, con nên thường
thăm nom và giúp đỡ bác những điều cần
thiết”.
Hôm đến chào từ giã anh để trở về lại
Na-Uy, tôi mang biếu anh hai chai rượu đỏ
loại tốt. Tôi khuyên anh, khi nào buồn thì
uống vài cốc cho nguôi ngoai, không nên
uống nhiều rượu mạnh và hút thuốc lá, có
hại cho sức khỏe. Anh nở nụ cười, nhưng
bỗng trở nên buồn bã:
- Anh đi rồi, tôi lại cô đơn,
chẳng còn ai tâm sự.
Hôm đó, tôi ở lại với anh tới hơn
một giờ khuya. Chống nạng tiễn tôi ra cửa,
anh bắt tay từ giã nhưng giữ khá lâu, không
muốn tôi đi. Tôi cười, bảo nhỏ:
- Anh cố dỗ giấc ngủ, đừng
thức dậy nửa đêm, uống rượu chống nạn đi
quanh nhà. Bọn tôi ở tầng dưới cũng mất ngủ
với anh luôn.
Anh gật đầu, cười thông cảm.
Sáu tháng sau, khi trở lại Mỹ, tôi
liền đến thăm anh. Bấm chuông mấy lần không
ai mở. Tôi không còn nghe tiếng động của đôi
nạng gỗ gõ xuống nền nhà như mọi khi. Buổi
chiều, cô con gái đi làm về, cho tôi biết là
anh ấy bị ung thư gan ở thời kỳ cuối. Con
gái của anh đã đưa anh vào bệnh viện
Fountain Valley từ tuần trước. Tôi lái xe
xuống ngay bệnh viện. Anh nằm bất động. Khi
tay tôi chạm vào anh, anh mở hé mắt nhìn tôi
và miệng cố nở nụ cười, méo mó. Thấy anh
cười mà tôi muốn khóc. Trông anh tiều tụy
và hốc hác quá. Nhưng anh rất bình tĩnh, như
ngày xưa khi đối diện trước quân thù. Anh
muốn ngồi dậy, nhưng không còn đủ sức. Tôi
ngồi bên cạnh, đưa tay xoa trên ngực anh,
bảo anh cứ nằm nghỉ.
- Bác sĩ bảo tôi không còn
nhiều thời gian nữa, ngày mai phải xuất viện
về nhà để gia đình lo hậu sự – Anh nói bằng
một giọng thì thào, yếu ớt.
Khi nhắc đến hai chữ gia đình, anh
lại cười, chua chát:
- Lại gia đình…!
Hiểu ý anh, tôi nói đùa cho anh
vui:
- Phải nói là đại gia đình,
vì ngoài cô con gái ra, anh còn có chúng tôi
nữa. Cứ yên tâm mà đi. Nhớ dọn sẵn một bãi
đáp cho ngon lành, chờ tôi đáp xuống sau anh
nghe.
Chiều hôm
sau anh được xe bệnh viện đưa về nhà. Cô
con gái túc trực bên anh. Tôi cũng luôn có
mặt. Anh ngỏ ý muốn uống với tôi một ly
rượu đỏ. Cô con gái ngần ngừ, nhưng thấy
tôi ra dấu gật đầu, cô rót hai ly rượu,
một ly mời tôi và một ly cô cầm đưa vào
miệng cha cô. Cuối cùng chúng tôi cũng cạn
ly. Không ngờ đó là ly rượu từ biệt. Tôi
bỗng nhớ tới lời của một bài ca cũ : “bạn ơi, quan
hà xin cạn chén ly bôi, ngày mai tôi đã…
đã đi xa rồi…”
Khuya hôm
đó anh trút hơi thở cuối cùng. Cô con gái
cho biết anh ra đi rất yên ả. Không trăng
trối một lời gì. Chỉ để lại một mảnh giấy
nhỏ với vài chữ ngoằn nghèo: “Nhớ liệm ba
bằng bộ quân phục trong tủ kính, nghe
con”.
Đám tang thật đơn giản theo ý
muốn của anh. Mấy lần anh dặn dò cô con gái
không được đăng cáo phó hay báo tin cho ai
biết. Tại nhà quàn, ngoài cô con gái của anh
và cậu bạn trai người Mỹ, chỉ có vợ chồng
tôi cùng cô con gái út. Một nhà sư già tụng
một thời kinh trước khi đậy nắp quan tài.
Tôi đứng nghiêm đưa tay lên chào anh. Anh
nằm uy nghiêm trong bộ quân phục, khuôn mặt
ánh lên nét hào hùng. Tôi có cảm giác như
anh vừa chết tại chiến trường. Không có bất
cứ một nghi lễ nào, nhưng tai tôi như đang
văng vẳng tiếng kèn truy điệu và khúc nhạc
Chiêu Hồn Tử Sĩ.
Đứng nghiêm chào anh một lần
nữa, khi quan tài đưa vào lò thiêu. Mọi thứ
đều trở về với cát bụi. Lòng tôi bỗng rộn
lên một niềm vui bất chợt, khi nghĩ anh sắp
được gặp lại anh Lê Huấn và những đồng đội
cũ, những chiến sĩ đích thực đã rất xứng
đáng với bộ quân phục oai phong của QLVNCH.
Họ đã tạo cho bộ chiến y một điều gì đó rất
thiêng liêng.
Phạm Tín An Ninh
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen