Tác giả Hoàng Lân.
(Câu chuyện thật của một bác sĩ ở Việt Nam sau ngày 30-4-1975)
Tôi là một bác sĩ y khoa. Thời chiến ở miền Nam, hầu hết các bác sĩ
đều phải vào quân đội, nhiệm vụ săn sóc sức khỏe cho quân nhân và gia
đình, đôi khi làm dân sự vụ khám bệnh miễn phí cho người dân. Trên mặt
trận, ngoài việc điều trị thương binh, có lúc tôi gặp bộ đội hoặc cán
bộ cộng sản bị thương và bị bắt, tôi vẫn chăm sóc cho họ mà không cần
biết trước mặt mình là ai, bạn hay thù.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, như số phận nổi trôi của đất nước, như
hoàn cảnh của hầu hết người dân miền Nam, tôi được lệnh phải trình
diện chính quyền mới được gọi là “chính quyền cách mạng” để được đi
“cải tạo” trở thành “người mới xã hội chủ nghĩa”. Theo thông cáo của
ủy ban quân quản, các sĩ quan như tôi cần mang theo tiền bạc đủ cho 30
ngày ăn. Mọi người hăm hở tranh nhau “đăng ký” mong rằng đi sớm sẽ về
sớm trong vòng một tháng.
Sau thời gian dài được gạn lọc, tra hỏi, và khi đã hoàn tất “9 bài học
căn bản” tôi được tàu đổ bộ cũ của hải quân VNCH đưa từ Trà Nóc (Cần
Thơ) xuống vùng U Minh, thuộc An Giang Rạch Giá Cà Mau với nhiệm vụ
dựng lên những lán trại dành cho các toán tù cải tạo khác xuống trụ
lâu dài. Chỗ ở chúng tôi là những căn chòi xiêu vẹo mất nóc, xung
quanh trống trơn dựng trên các mô đất cao chống ngập, chúng tôi phải
cấp tốc sửa chữa che mưa che nắng, đêm đêm rắn bò dưới chiếu nằm không
dám nhúc nhích.
Mỗi ngày chúng tôi phải rời trại thật sớm lên rừng tràm xa 5 cây số và
trở về trước 5 giờ chiều. Ở đây trời sập tối rất nhanh, muỗi bay vo vo
trên đầu như chuồn chuồn, chúng liều mạng bám vào da thịt hút máu
không thể đuổi kịp. Mỗi ngày mỗi người chúng tôi phải mang về nhà 3
cây tràm từ 5 đến 10 thước, bề tròn khoảng một ôm nhỏ dùng làm cột
trại chờ đón các toán khác.
Rừng tràm U minh dầy đặc, ẩm thấp, tối tăm, đầy rẫy sinh vật rắn, rết,
bò cạp.. cực độc. Đường lưu thông chỉ là những con kinh rạch ngang dọc
được đào trước đây sâu tới ngực, ngang cỡ vài mét, lâu ngày không xử
dụng nước màu đen sẫm như nước cống, bốc mùi sình hôi hám, ruồi nhặng
bay vo ve.
Chúng tôi chui vào rừng đẫm nước màu đỏ của cây tràm, dùng rựa đốn mỗi
người 3 cây, cùng xúm nhau kéo từng cây ra bờ kinh. Trong rừng có loại
dây leo gọi là dây “trại” giống như dây mây, dẻo dai, tôi dùng bó 3
cây thành một rồi đẩy xuống lòng kinh. Tuy nặng nhưng cây nổi dưới
nước, tôi quàng vào cổ rồi cố sức kéo bồng bềnh theo dòng kinh, chẳng
khác gì con trâu kéo cày bì bõm dưới ruộng nước.
Một hôm trời mưa tầm tã, tôi trầm mình dưới dòng kinh hôi hám cố kéo
khối cây về trại cho kịp ngày. Trên bờ, hai bộ đội du kích lầm lì tay
cầm súng AK như sẵn sàng nhả đạn vào bất cứ tù nhân nào có ý trốn
đều phải vào quân đội, nhiệm vụ săn sóc sức khỏe cho quân nhân và gia
đình, đôi khi làm dân sự vụ khám bệnh miễn phí cho người dân. Trên mặt
trận, ngoài việc điều trị thương binh, có lúc tôi gặp bộ đội hoặc cán
bộ cộng sản bị thương và bị bắt, tôi vẫn chăm sóc cho họ mà không cần
biết trước mặt mình là ai, bạn hay thù.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, như số phận nổi trôi của đất nước, như
hoàn cảnh của hầu hết người dân miền Nam, tôi được lệnh phải trình
diện chính quyền mới được gọi là “chính quyền cách mạng” để được đi
“cải tạo” trở thành “người mới xã hội chủ nghĩa”. Theo thông cáo của
ủy ban quân quản, các sĩ quan như tôi cần mang theo tiền bạc đủ cho 30
ngày ăn. Mọi người hăm hở tranh nhau “đăng ký” mong rằng đi sớm sẽ về
sớm trong vòng một tháng.
Sau thời gian dài được gạn lọc, tra hỏi, và khi đã hoàn tất “9 bài học
căn bản” tôi được tàu đổ bộ cũ của hải quân VNCH đưa từ Trà Nóc (Cần
Thơ) xuống vùng U Minh, thuộc An Giang Rạch Giá Cà Mau với nhiệm vụ
dựng lên những lán trại dành cho các toán tù cải tạo khác xuống trụ
lâu dài. Chỗ ở chúng tôi là những căn chòi xiêu vẹo mất nóc, xung
quanh trống trơn dựng trên các mô đất cao chống ngập, chúng tôi phải
cấp tốc sửa chữa che mưa che nắng, đêm đêm rắn bò dưới chiếu nằm không
dám nhúc nhích.
Mỗi ngày chúng tôi phải rời trại thật sớm lên rừng tràm xa 5 cây số và
trở về trước 5 giờ chiều. Ở đây trời sập tối rất nhanh, muỗi bay vo vo
trên đầu như chuồn chuồn, chúng liều mạng bám vào da thịt hút máu
không thể đuổi kịp. Mỗi ngày mỗi người chúng tôi phải mang về nhà 3
cây tràm từ 5 đến 10 thước, bề tròn khoảng một ôm nhỏ dùng làm cột
trại chờ đón các toán khác.
Rừng tràm U minh dầy đặc, ẩm thấp, tối tăm, đầy rẫy sinh vật rắn, rết,
bò cạp.. cực độc. Đường lưu thông chỉ là những con kinh rạch ngang dọc
được đào trước đây sâu tới ngực, ngang cỡ vài mét, lâu ngày không xử
dụng nước màu đen sẫm như nước cống, bốc mùi sình hôi hám, ruồi nhặng
bay vo ve.
Chúng tôi chui vào rừng đẫm nước màu đỏ của cây tràm, dùng rựa đốn mỗi
người 3 cây, cùng xúm nhau kéo từng cây ra bờ kinh. Trong rừng có loại
dây leo gọi là dây “trại” giống như dây mây, dẻo dai, tôi dùng bó 3
cây thành một rồi đẩy xuống lòng kinh. Tuy nặng nhưng cây nổi dưới
nước, tôi quàng vào cổ rồi cố sức kéo bồng bềnh theo dòng kinh, chẳng
khác gì con trâu kéo cày bì bõm dưới ruộng nước.
Một hôm trời mưa tầm tã, tôi trầm mình dưới dòng kinh hôi hám cố kéo
khối cây về trại cho kịp ngày. Trên bờ, hai bộ đội du kích lầm lì tay
cầm súng AK như sẵn sàng nhả đạn vào bất cứ tù nhân nào có ý trốn
trại.Lúc đó tôi cảm thấy buồn và nhục. Một người bình thường cũng
không thể bị đối xử như vậy huống chi một bác sĩ như tôi. Ít ra trong
xã hội tôi cũng giúp ích được cho bệnh nhân, chăm sóc sức khỏe cho
nhiều người, chưa nói được kính trọng, nâng niu.
Vậy mà hôm nay dưới chính quyền được gọi là cách mạng, hứa hẹn mang
hạnh phúc ấm no về với nhân dân, sự thật phũ phàng cho thân phận người
dân miền Nam được xếp vào thành phần “Ngụy”, từ nông thôn đến thành
thị, tất cả đều hưởng một cuộc “đổi đời” đích đáng. Tôi không cầm được
giọt nước mắt, nước mắt chan hòa lẫn với nước mưa lạnh giá, cố nuốt
trôi đi nỗi chua xót đắng cay của kiếp con người.
Cùng lúc ấy trên bờ kinh có đàn bò đang gặm cỏ. Những con bò thư thái,
bình yên hình như chúng không biết cảnh đau lòng xung quanh, của loài
người mà chúng từng hợp tác kéo cày sản xuất lúa gạo; chúng vẫn ung
dung, lâu lâu ngước nhìn những con người đang hì hục kéo cây tràm dưới
dòng kinh rồi tiếp tục cúi đầu nhai cỏ.
Trước cảnh đàn bò ăn cỏ, cảnh bộ đội cầm AK sẵn sàng nhả đạn, nhìn số
phận của mình và các bạn tù, tự nhiên tôi có ý tưởng muốn được đổi
đời, một cuộc đời mới hạnh phúc hơn: tôi muốn được trở thành con bò để
được tự do gặm cỏ, lâu lâu ngước nhìn thế thái nhân tình mà không phải
lo âu, tủi nhục như chúng tôi hiện nay.
Một làn gió mạnh thổi tạt qua. Những hạt mưa nặng trĩu làm da mặt tôi
buốt rát, tôi chợt tỉnh. Tôi đang là con người, đang được “cải tạo” để
trở thành người của xã hội mới.
Năm 1979 khi ca sĩ Joan Baez phỏng vấn trên đảo tỵ nạn ở Nam Dương,
tôi thuật lại câu chuyện “muốn làm con bò” ở trên cùng một số câu
chuyện mà tôi trực tiếp kinh nghiệm dưới chế độ ở Việt Nam sau 1975.
Joan Baez cũng hỏi nhiều người tỵ nạn khác. Tất cả đều thuật lại những
câu chuyện tương tự nhưng khác hoàn cảnh, tất cả đều nói lên tiếng nói
như nhau: chế độ ở Việt Nam sau 1975 thật sự chỉ là một chế độ tàn
bạo, nhà cầm quyền khéo léo che dấu từ nay đã lộ rõ.
Người ca sĩ từng
Washington Post phản đối nhà cầm quyền Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam làm
bừng tỉnh lương tâm nhân loại.
hoạt động phản chiến, từng ca ngợi Hà Nội và Mặt Trận Giải Phóng Miền
Nam, từng chống Hoa Kỳ có mặt tại miền Nam đã phải cảm động, bà đã
thức tỉnh, bà cùng nhiều trí thức trên thế giới đăng thư ngỏ trên tờWashington Post phản đối nhà cầm quyền Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam làm
bừng tỉnh lương tâm nhân loại.
Hôm nay tôi viết lại câu chuyện này trên đất nước người, không còn
phải cực khổ như xưa, nhưng tôi có thể hình dung được vẫn còn biết bao
nhiêu đồng bào của tôi tại quê nhà đang muốn được làm con bò như tôi
trước đây.phải cực khổ như xưa, nhưng tôi có thể hình dung được vẫn còn biết bao
nhiêu đồng bào của tôi tại quê nhà đang muốn được làm con bò như tôi
Tháng 3, 2015.
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen