Sơn Tùng
“Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay
Quê hương là cầu tre nhỏ
Mẹ về nón lá nghiêng che
Là hương hoa đồng cỏ nội
Bay trong giấc ngủ đêm Hè”
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay
Quê hương là cầu tre nhỏ
Mẹ về nón lá nghiêng che
Là hương hoa đồng cỏ nội
Bay trong giấc ngủ đêm Hè”
Trương
Thế Phát là một thương gia trẻ ở kinh đô Thăng Long. Ông có tàu bè chở
hàng đi buôn bán ờ trong và ngoài nước. Khi quân Pháp tiến đánh thành Hà
Nội, và chiếm Bắc Ninh, Thái Nguyên, ông lên tàu đem gia đình ra ngoại
quốc. Sau bao ngày lênh đênh trên biển cả, gia đình ông đến Xiêm La
(Thái Lan), rồi định cư tại đây. Nhờ có tàu bè, ông mang theo một mớ gia
sản nên khi qua Xiêm ông đã có sẵn một gia tài. Với tài kinh doanh, ông
đã gây dựng một sự nghiệp khá lớn, gồm các cửa tiệm kim hoàn, cửa tiệm
vải vóc lụa là, và Trà thất Mây Tần.
Là
một nhà kinh doanh, công việc bận rộn, nhưng òng luôn thương nhớ quê
hương. Ông nhớ Hà Nội ba mươi sáu phố phường, với năm cửa Ô xưa. Ôi!
Những cô gái hàng Đào, hàng Bạc... má đỏ, môi hồng, quần điều, áo lụa
trắng, đeo xà tích bạc. Ông nhớ cốm Vòng, nhớ phở, nhớ xôi và bánh cuốn
Hà Nội. Ông nhớ Hồ Gươm, hồ Tây, chùa Trấn Quốc, chùa Một Cột... Xiêm La
có nhiều chùa lớn và nhiều lễ hội nhưng không đâu bằng hội chùa
Hương... Ông nhớ những bài hát ru, những điệu quan họ. Xiêm La có nhiều
trái cây nhưng không bằng nhãn, vải, cam, quít... Hà Nội. Ở Xiêm La ông
có nhiều bạn mới, nhưng lòng ông vẫn nhớ nhung các bạn Hà Nội và những
kỷ niệm thời ấu thơ. Nhất là buổi đầu, ngôn ngữ bất đồng, phong tục khác
biệt làm cho ông chao đảo như con thuyền không lái.
Lúc
bấy giờ nhiều người trong nước cũng bỏ nước ra đi. Họ ra đi mang theo
một bầu nhiệt huyết, một lý tưởng cao siêu là khôi phục đất nước, giải
phóng dân tộc. Có nhiều nhóm hoạt động. Họ từ trong nước ra. Họ cũng từ
Trung Quốc, Nhật Bản sang Xiêm hoạt động. Họ ở lại Xiêm mà cũng có người
đi qua, đi lại. Tuy là nhiều tổ chức khác nhau, tựu trong có hai nhóm.
Một nhóm thuộc phe quốc gia, một phái thuộc phe quốc tế.
Trà
thất Mây Tần do con trai của ông là Trương Thế Đạt trông coi, còn các
tiệm khác thì do phu nhân, con trai thứ và các con gái ông quản lý. It
lâu sau, Trương Thế Phát mất, cơ nghiệp truyền lại cho phu nhân và các
con. Trương Thế Đạt tiếp tục kinh doanh Trà thất Mây Tần.
Trà
thất Mây Tần ở thủ đô Bangkok là một nơi trai thanh gái lịch lui tới
tấp nập. Không những người Xiêm La mà người Cao Miên, Lào, Trung Quốc,
Ấn Độ đều thường xuyên tới uống trà, và thưởng thức ca vũ nhạc. Một hôm,
có mấy người khách Á Đông tới trà thất Mây Tần uống trà, uống rưọu,
Trương Thế Đạt nhận ra có một số khách là người Việt Nam. Ông bèn tới
chào hỏi, mới biết họ quả là người Việt Nam. Nghe giọng nói của họ, ông
nhận ra họ là người Bắc, người Trung, và người Nam. Ông hỏi thăm họ thì
họ cho biết họ qua đây lập nghiệp. Trương Thế Đạt rất vui mừng khi gặp
lại đồng bào Việt Nam. Tâm trạng hai bên thật vui vẻ như câu thơ “Thiên
lý tha hương ngộ cố tri”. Họ hỏi ông tại sao đặt tên trà thất là Mây
Tần. Ông nói ông rất yêu quê hương, lòng luôn nhớ băm sáu phố phường Hà
Nội. “Hồn quê theo ngọn Mây Tần xa xa”.
Dần
dần, hai bên quen nhau, Trương Thế Đạt mời họ về nhà chơi. Kể từ đó hai
bên liên lạc thân mật. Sau một thời gian, khách hiểu rõ gia đình Trương
là một gia đình yêu nước, vì không cam tâm làm tôi tớ bọn ngoại xâm mà
bỏ nước ra đi. Vì quen thân, họ cũng cho biết họ thuộc đảng cách mạng
tiến bộ Việt Nam, được thế lực quốc tế như Liên Xô, Trung Quốc yểm trợ,
thế lực rất mạnh, bám rễ trong và ngoài nước, có mục đích bài phong đả
thực, xây dựng một xã hội công bằng tự do, người không bóc lột người.
Đảng có Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Hùynh Thúc Kháng tham gia, và có
khoảng mười triệu đảng viên. Lực lượng đảng trong nước đã vùng lên như
Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Thái Học, Hoàng Hoa Thám đã chiếm được nhiều
tỉnh trong nước, giết vô số thực dân Pháp. Trương Thế Đạt nghe họ nói
vậy cũng tin tưởng, ủng hộ cho họ một số vàng để làm quỹ hoạt động cứu
quốc. Trương Thế Đạt mất, con trai là Trương Thế Vinh nối nghiệp cha
kinh doanh trong ngoài, và ông cũng giữ mối liên lạc với tổ chức quốc
tế, và cũng đóng góp vàng bạc cho họ. Trà thất Mây Tần và nhà của Trương
Thế Vinh trở thành nơi ẩn náu và hoạt động của đảng cách mệnh. Ông được chi bộ đảng khen ngợi là “nhân sĩ yêu nước”, và những Việt kiều ở Thái Lan theo cộng sản được gọi là “Việt kiều yêu nước”. Gia đình Trương Thế Vinh đã được chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa gửi giấy ban khen là gia đình yêu nước, đã có công với cách mạng.
Sau
1945, Đe Nhị Thế Chiến chấm dứt, Việt Minh cướp chính quyền. Một số dân
chúng vì nạn đói, vì sợ cộng sản và thực dân Pháp nên đã bỏ nước sang
Lào, Miên, Xiêm La, hoặc Pháp. Những người Việt Nam sinh sống tại Xiêm
La ngày càng đông, và những người theo phe cộng sản càng mạnh. Năm 1954,
hiệp định Geneve chia đôi Việt Nam. Nước “Việt Nam Dân chủ cộng hòa”
giao thương với Xiêm La tức Thái Lan, và đặt tòa đại sứ tại Bangkok.
Những đảng viên cộng sản Việt Nam ra mặt công khai hoạt động. Họ ra sức
vận động “Việt kiều” tại Thái Lan về xây dựng đất nước. Chính sách này
cũng được phát triển nhiều nơi như Pháp, Lào, Miên...
Họ
bảo “đất nước ngày nay cần nhiều bàn tay đóng góp. Việt Nam nay đã tiến
lên xã hội chủ nghĩa, nông dân có ruộng cày, thoát khỏi cảnh làm nô lệ
cho bọn phú nông địa chủ; xã hội bây giờ không còn nạn người bóc lột
người. Sinh viên học sinh được tự do học hành, không phài đóng học phí
mà còn được chính phủ nuôi ăn học, cấp sách vở cho đến khi thành tài.
Trong nước ai cũng có công ăn việc làm, không ai thất nghiê.p. Họ gửi
tặng ông nhiều sách báo, có nhiều thơ ca, âm nhạc và tiểu thuyết ca ngợi
sự lãnh đạo tài ba của đảng và chính phủ”.
Trương
Thế Vinh tuy sinh tại Thái Lan, nhưng được nghe cha ông ca tụng về con
người và đất nước Việt Nam, nay lại được nghe thêm những lời tuyên
truyền của cộng sản nên càng thêm yêu nước, và càng nhớ quê hương. Ông
luôn luôn mở đài Hà Nội, và những bài thơ, bản nhạc đã gieo vào lòng ông
tình yêu quê hương, tổ quốc.
“Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay
Quê hương là cầu tre nhỏ
Mẹ về nón lá nghiêng che
Là hương hoa đồng cỏ nội
Bay trong giấc ngủ đêm Hè”
Mẹ về nón lá nghiêng che
Là hương hoa đồng cỏ nội
Bay trong giấc ngủ đêm Hè”
Lúc
bấy giờ công việc buôn bán ngày càng khó khăn khiến Trương Thế Vinh
chán nản. Nay được “cán bộ” cộng sản kêu gọi và khuyến khích, vì vậy ông quyết định trở về góp sức xây dựng quê hương. Ông
nay được ban khen là “gia đình có công với cách mạng”. Nếu về Việt Nam
chắc ông sẽ được đảng và nhà nước quý trọng. Con đường tương lai rộng mở
trước mắt ông.
Ta về ta tắm ao ta!
Ông
muốn trở về tắm ao ta, về làm người hùng cứu nước, còn hơn là sống ở
quê người, dù là triệu phú cũng có mặc cảm là kẻ tha phương cầu thực, kẻ
lưu đày, là công dân bậc hai!
Ôi!
Nước ta nay đã độc lập, không còn bọn thực dân Pháp xâm chiếm quê
hương. Vì thực dân Pháp mà nhân dân ta khốn khổ điêu tàn. Vì thực dân
Pháp mà tổ phụ ông phải bỏ quê hương mà đi. Nay là một dịp để ông trở về
quê hương, về 36 phố phường Hà Nội và năm cửa Ô xưa! Tình yêu quê hương
không còn là một mớ tình cảm bâng khuâng mà đã biến thảnh sự thực. Ông lo bán nhà cửa, hàng hóa và các cơ sở kinh doanh thu được năm trăm lượng vàng và mười ngàn đô la Mỹ. Sau khi đã thanh toán mọi thứ, ông đã “đăng ký” mua máy bay trở về Hà Nội thân yêu. Nhưng toà
đại sứ Việt Nam CS tại Thái Lan đã lo mọi sự. Tất cả “Việt kiều” tại
Thái Lan sẽ cùng nhau về Việt Nam bằng đường hàng không sang Cambodge
rồi từ đó sẽ đi xe ô tô hay máy bay về Việt Nam.
Sau
khi đoàn “Việt kiều” Thái Lan về đến Cambodge, họ được chuyển ngay lên
xe ô tô Liên Xô là loại xe bốn bề kín mít chở ngay về Quảng Bình Việt
Nam. Khi về đến biên giới Việt Nam, cả đám được cán bộ cộng sản đeo súng
yêu cầu xuống xe để vào một trung tâm, bốn bề rào kín và có lính gác.
Họ bảo:
“các
Việt kiều tạm ở lại đây một thời gian để học tập đường lối chính sách
của Đảng và Nhà Nước. Họ ra lệnh các Việt kiều tập họp lại, gia đình nào
theo gia đình đó. Họ bảo mọi người không được ra khỏi trung tâm nếu
không được trung tâm cho phép”. Họ đưa mọi người vào hội trường. Viên
“thủ trưởng” tỏ ra rất lịch sự. Ông nói:
“Chào các đồng bào và các đồng chí,
Hôm nay tôi xin thay mặt mặt đảng và chính phủ chào mừng những người con yêu trở về tổ quốc.”
Ông vừa dứt lời, mọi người vui vẻ hoan hô, tiếng vỗ tay nghe vang như tiếng pháo.
Tiếp theo, ông nói:
Tiếp theo, ông nói:
“ Thưa các đồng chí và đồng bào,
“Sau
chiến thắng Điện Biên Phủ, những người ngoại quốc đã ước mơ trong một
đêm được trở thành người Việt Nam. Các đồng bào và đồng chí nay đã thành
người nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa.Trước tiên, yêu cầu mọi người giao nộp thẻ căn cước, thẻ quốc tịch và khai sinh ngoại quốc để Nhà nước làm thủ tục hành chánh.”
Ông nói xong thì lui bước, để cho một đại biểu khác lên tiếng yêu cầu đồng bào làm bản tự khai hồ sơ, lý lịch, nhất là phải kê khai vàng bạc, kim cương, hạt xoàn và đô la. Trong
khi mọi người tập trung ở hội trường, cán bộ cộng sản đã vào khám xét
hành lý của Việt kiều. Những ai có chìa khóa va ly hay khóa các hộp kín,
họ đến bảo nhỏ giao nộp chìa khóa cho họ làm thủ tục kiểm tra. Ngay hôm
đó, họ bắt mọi người giao nộp vàng, kim cương, nữ trang và đô la.
Ông cán bộ nói:
“Đảng
sẽ giữ tài sản cho họ vì sợ bọn biệt kích Mỹ ngụy cướp của giết người..
Cứ yên tâm đưa chính phủ giữ dùm, rồi chính phủ sẽ trả lại cho các gia
đình sau khi tình hình đã được ổn định.”
Tiếp
theo, mọi người làm thủ tục y tế. Mọi người phải vào phòng kín, cởi hết
áo quần để y sĩ khám xét. Không thử máu, không nghe tim mạch, mà chỉ
khám tổng quát. Thủ tục này thì cũng nhanh thôi, ngoại trừ những ai còn
cất giấu tài sản trong người là bị tịch thu và bị phê bình, kiểm thảo. Các
gia đình Việt kiều được cán bộ rút sổ tay, xé giấy viết biên nhận bằng
những tờ giấy vàng úa xấu xí với những giòng chữ nghệch ngoạc, không rõ
chữ viết và con số, và cũng không ghi ngày tháng, chữ ký và tên người
nhận:
....Đã nhận 300 miếng kim loại bề ngoài màu vàng... Đã nhận một ngàn tiền nước ngoài... Đã nhận hai mươi viên đá nhỏ óng ánh...
Đến đây thì các Việt kiều biết mình đã lầm, đã mắc gian kế. Họ cũng như Thúy Kiều trong ngày đầu gặp Mã Giám Sinh đã kêu lên:
Xem gương trong bấy nhiêu ngày
Thân con chẳng kẻo mắc tay bợm già!
Thân con chẳng kẻo mắc tay bợm già!
Vài
ngày sau, các “Việt kiều” được “phân phối” về các thôn xóm ở miền Bắc.
Gia đình Trương Thế Vinh được “phân phố”i về một làng ở Quảng Bình. Ông
chất vấn cán bộ:
-
Chúng tôi xin về Hà Nội là quê hương của tôi và đã được tòa đại sứ Việt
Nam ở Bangkok chấp thuận. Nay sao các ông lại bắt tôi về Quảng Bình?
Tên cán bộ trong “ban Việt kiều yêu nước” nói:
”Nay
chúng ta đang xây dựng Hà Nội thành một thủ đô to lớn và văn minh hơn
mười lần xưa. Hà Nội tương lai sẽ có những tòa cao 40-50 tầng, vĩ đại
hơn Mỹ. Vi là xây cất chưa xong, nên chưa có nhà cho đồng bào ở. Vậy ông
tạm ở lại Quảng Bình một thời gian, rồi sẽ đưa gia đình về Hà Nội sau”.
Biết
rằng phản đối cũng vô ích cho nên gia đình ông phải lên xe về Quảng
Bình. Gia đình ông được đổ xuống quốc lộ I, rồi được công an dẫn bộ tới
một làng nhỏ, cách quốc lộ vài cây số. Làng này cho ông một miếng đất
ven sông để ở và canh tác. Nơi ông ở là bãi sông vắng, cách xa xóm làng
vài cây số. Ông là một kẻ ngụ cư. Hơn nữa, ông là một kẻ nguy hiểm. Dân
làng không ai dám giao thiệp cùng gia đình ông vì họ coi gia đình ông
như một những kẻ gián điệp từ ngoại quốc về để phá hoại xã hội chủ
nghĩa.
Tiền của mất sạch, gia đình ông trở thành kẻ bần cùng nhất nước, cô đơn nhất nước.
Thư ông gửi đi không có hồi âm. Ông không nhận được lá thư nào từ Thái
Lan hay Hà Nội. Ở Thái Lan, ông có tài sản, bạn bè, nhưng về
đây, quê hương Việt Nam,Trương Thế Vinh và gia đình bị lưu đày và cấm
cố. Gia đình ông vì yêu nước mà trở về nay lại bị coi là kẻ thù của dân
tộc. Sống ở Thái Lan, ông tự coi là người xa lạ, nay về Việt Nam, ông lại trở thành người xa lạ trên chính quê hương mình.
Ông
suy nghĩ xa gần mà lòng đau như cắt. Ông trách ông ngu dại. Nước Thái
Lan đã cho ông nương tựa, giúp ông làm giàu, con cái ông học hành thành
tựu, thế mà ông bỏ Thái Lan mà về Việt Nam, về quê mẹ, nhưng quê
mẹ đã giết gia đình ông, cướp đoạt tài sản và hy vọng của ông! Kẻ sát
nhân cướp bóc chính là những kẻ mà ông đã nuôi nấng, kẻ đã rao giảng tự
do, nhân đạo và bình đẳng! Ông đãamv bỏ mồi bắt bóng! Ông là người ngu xuẩn nghe theo những lời phỉnh nịnh để rồi làm hại mình và con cháu!
Vài năm sau, chiến tranh bùng nổ, miền Bắc bắt thanh niên nam nữ “sinh Bắc tử Nam”. Trương
Thế Vinh có một trai, một gái. Con trai ông phải vào “bộ đội” rồi tử
thương tại chiến trường miền Nam. Con gái ông phải đi “thanh niên xung
phong”, lâm bệnh rồi chết trên Trường Sơn. Hai vợ chồng cắng đắng nhau.
Bà trách ông nhẹ dạ tin lời kẻ cướp. Bà không chịu nổi đời sống kham khổ
và nỗi uất hận vì bị lường gạt nên mắc bệnh, không thuốc men mà chết.
Còn ông, trong cơn đau khổ, uống rượu say rồi chửi cộng sản. Kết cuộc
ông bị công an bắt bỏ tù rồi chết trong trại tù Thái Nguyên.
Sơn Tùng
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen