Suốt thời phong kiến, các triều đại Trung Hoa không xem biển cả là khu vực cần chinh phục mà coi đây là một chiến lũy thiên nhiên, cần chú trọng đến hải phòng (phòng ngự bờ biển) và hải cấm (cấm đoán những qua lại trên biển) nhằm chống ngoại xâm hay ngăn ngừa những nhóm chống đối âm mưu bạo loạn, chẳng hạn “Tỏa quốc cấm hải” là chính sách của nhà Thanh ban bố năm 1661 (Thuận Trị 18).
Cho đến tận thế kỷ XIX, những ai dùng thuyền ra khơi nếu không có sứ mạng hay được phép của triều đình đều bị coi là giặc. Tuy nhiên, chiến lược biển của Trung cộng ngày nay đã hoàn toàn thay đổi và đầy tham vọng.
1. Tháng
9/2008, Tạp chí “Bình luận phòng vệ Hán Hòa” của Canada đã đăng tải bài
viết “Trung cộng tăng cường xây dựng căn cứ quân sự tình báo ở quần
đảo Hoàng Sa”. Theo đó, cùng với việc xây dựng các căn cứ tàu ngầm
bí mật ở đảo Hải Nam, hải quân và không quân Trungcộng đang tăng cường
xây dựng các căn cứ trên quần đảo Hoàng Sa, trong đó có sân bay quân sự
lớn nhất trên biển và trạm thu thập tin tức tình báo siêu cấp. Các loại
ăngten đã được bố trí dày đặc trên một đảo nhỏ thuộc quần đảo Hoàng Sa.
Đảo nhỏ này qua một hành lang nhân tạo xây dựng trên biển đã nối liền
với đảo Phú Lâm. Ăngten cỡ lớn trang bị trên đảo có thể theo dõi được toàn bộ hoạt động trên Biển Đông, tới tận Malaysia.
Sau
khi chiếm cứ Hoàng Sa của Việt Nam, Trung cộng đã xây dựng sân bay với
tham vọng biến đảo này thành “hàng không mẫu hạm không bao giờ chìm”
(ảnh: visithainan.com.au)
Những
tín hiệu thu được sẽ được đưa vào ghi âm và xử lý tại 4 tòa nhà lớn xây
dựng trên đảo. Những căn cứ thuộc loại này sẽ do phòng 3 và phòng 4
thuộc Bộ Tổng tham mưu Quân Giải phóng quản lý.
\ Phòng 3 phụ trách thu thập, phân tích và giải mã tin tức tình báo.
Phòng
4 phụ trách đối kháng điện từ. Tất cả những tin tức tình báo này sau
khi được tập hợp lại sẽ do Bắc Kinh phụ trách phân tích, giải mã.
Sân
bay quân sự trên đảo Phú Lâm của quần đảo Hoàng Sa cũng được xây dựng
lại, đường băng hiện đã dài hơn 2.500m, một bộ phận đường băng đã vươn
ra tận biển, đủ để cho bất kỳ loại máy bay thế hệ ba nào của Trung cộng
như SU-30MKK có thể lên xuống.
Sân bay xây một trạm radar, 4 nhà kho chứa xăng dầu cỡ lớn, 4 nhà kho có thể dùng để sửa chữa máy bay.
Căn cứ hải quân cũng được xây dựng lại cùng với đê chắn sóng, cầu tàu dài 500m, có thể neo đậu tàu khu trục và tàu hộ tống.
Các
công trình kiến trúc xây dựng trên đảo có thể đủ dùng cho hàng nghìn
người sinh hoạt bình thường. Điều này cho thấy quần đảo Hoàng Sa đã trở
thành căn cứ quân sự tổng hợp của hải quân, không quân và thu thập tin
tức tình báo của Trung cộng . Tại đây mỗi tuần có tàu đổ bộ chuyên chở nhiên liệu thực phẩm tiếp tế cho đảo.
Mục đích của việc Trung cộng tăng cường xây dựng căn cứ quân sự trên đảo Phú Lâm là để tạo nên một căn cứ tiền duyên mạnh, phối hợp với các căn cứ tàu ngầm và tàu nổi ở đảo Hải Nam, nhằm thâm nhập quân sự sâu hơn nữa vào toàn bộ khu vực Biển Đông.
Một
khi eo biển Đài Loan có chiến sự, đảo Phú Lâm sẽ là “hkmh không bao giờ
chìm”, giám sát quân Mỹ tăng viện từ hướng Bắc của Ấn Độ Dương. Bán
kính tác chiến của máy bay SU27, SU30MKK cất cánh từ quần đảo Hoàng Sa
có thể bao trùm lên toàn bộ Biển Đông, tới tận Malaysia, Phillipines và
Brunei.
2. Tháng 3/2009,
Đới Hy – Đại tá Không quân Trung cộng đã hô hào trên một tờ báo về
việc nước này cần thiết lập căn cứ quân sự quy mô tại Trường Sa để bảo
vệ nguồn tài nguyên ở Biển Đông (?!). Vị Đại tá này nhận định, tương lai
Trung cộng phụ thuộc vào các vùng biển đảo là không hề phóng đại.
Trung cộng không thể giàu mạnh nếu không có nguồn lợi từ biển và không
bảo đảm được an ninh cho các tuyến giao thương hàng hải nên Trung cộng
cần hiểu rõ tính cấp bách trong việc chạy đua với các nước láng giềng.
Một căn cứ lớn phải được thiết lập tại Biển Đông, là tiền đề cho sự hiện diện ngoài khơi của Trung cộng trên thế giới. Một khi dây
chuyền hàng hải bao gồm các ngành đánh cá, sinh học biển, dầu khí, vận
tải, du lịch, dịch vụ… được thành lập sẽ trở thành động lực kinh tế lớn
lao cho tỉnh Hải Nam và cả nước Trung cộng Cùng với việc phát triển
nguồn tài nguyên Biển Đông, Đại tá này cho rằng, cần thiết lập căn cứ
quân sự trên quần đảo Trường Sa với các cơ sở dành cho máy bay trực
thăng và các loại hình tác chiến khác. Hải phận và không phận rộng
lớn ở Biển Đông sẽ trở thành địa điểm huấn luyện quân sự không chỉ bảo
vệ phát triển kinh tế của Biển Đông mà còn thúc đẩy hiện đại hóa quân
đội của nước này.
3. Trong
cuốn “An ninh và chính trị quốc tế ở Biển Đông” – NXB Routledge, New
York, 2009, GS Trường cao đẳng Hải quân Mỹ Bruce A. Elleman cũng nhận
xét rất đáng để chúng ta tham khảo rằng, các căn cứ quân sự của Trung
cộng ở Biển Đông đang dần được củng cố và có khả năng tác chiến cao
hơn. Điển hình là đảo Hải Nam với hạ tầng cơ sở viễn thông được nối kết
rất tinh vi và được ngụy trang rất khó phát hiện. Trong thập niên 90 của
thế kỷ trước, Trung cộng tiếp tục xây dựng thêm các căn cứ quân sự
trên một số hòn đảo khác thuộc quần đảo Trường Sa.
Quần đảo Hoàng Sa nhìn từ máy bay (ảnh: Wikipedia)
Dựa
trên cácmáy móc bị điện tử và cơ sở vật chất được quan sát qua vệ tinh
thì đảo Phú Lâm và bãi đá Gạc Ma dường như là hai căn cứ chính cho các
hoạt động bành trướng của Trung cộng kéo dài từ Biển Đông đến tận eo biển Malacca.
Các đảo và các rặng đá ngầm khác có vũ trang của Trung cộng được kết
nối qua vệ tinh hay trạm vô tuyến mặt đất và thậm chí họ còn có mạng
Internet để liên lạc giữa các tướng lĩnh địa phương và các hạm đội. Đó
là chưa kể đến các thiết bị điện tử tinh vi trên các chiến đấu cơ, tàu
chiến, tàu ngầm, tất cả đều phục vụ việccho tăng cường tiềm năng quân
sự sẵn có trên đất liền của Trung cộng trở nên đáng sợ hơn.
Phần lớn các căn cứ quân sự ở bờ biển phía nam Trung cộng được kết nối vô tuyến với các hoạt động hải quân ở ngoài khơi. Trung tâm đầu não của hệ thống viễn thông tập trung ở đảo Hải Nam. Mặc dù là tỉnh nhỏ nhất của Trung cộng tính về mặt lãnh thổ, chỉ khoảng 35.000km2 nhưng Hải
Nam là nơi đặt tổng hành dinh của Cục bờ biển và hải đảo Trung Bộ, Tây
và Nam Trung cộng để giám sát quần đảo Hoàng Sa, Trung Sa và quần đảo
Trường Sa. Vùng biển đảo Hải Nam xấp xỉ khoảng 2 triệu km2,
để kiểm soát được một khu vực rộng lớn như thế, một radar lớn loại quét
sóng quá chân trời được đặt gần bờ biển Hải Nam và chĩa thẳng về hướng
Nam.
Trong
thập niên 70, Trung cộng đã từng thử nghiệm radar loại OTH có đường
kính 2,3m với khả năng phát hiện tàu qua lại trong vòng bán kính 250km.
Để
tuần tra khu vực này, các tàu hải quân Trung cộng được trang bị hệ
thống định vị có khả năng bắt tín hiệu vệ tinh của Trung cộng cũng như
của nước ngoài. Một thiết bị hướng dẫn hải quân chính khác là hệ thống
định vị mặt đất kỹ thuật số DGPS có độ chính xác khoảng 5-10m trong phạm
vi hoạt động 300km. Việc nghiên cứu được bắt đầu vào thập niên 70 qua 3
trạm tín hiệu hỗ trợ hướng dẫn vô tuyến điện công suất lớn ở miền Nam
Trung cộng . Trong khi đó các trạm tín hiệu hỗ trợ hướng dẫn vô tuyến
kết nối hàng hải (RBN-DGPS) được đặt ở Tam Á, Hải Khẩu và Haifou.
Một
trạm tín hiệu DGPS khác có công suất cao hơn với tần số 295kHz được đưa
vào hoạt động vào năm 1999 tại Tam Á, sau đó thêm hai trạm ở Yangpu và
Baohujiao cũng tại miền Nam Trung cộng .
Từ
năm 2000, Trung cộng đã phóng 3 vệ tinh lên quỹ đạo để thiết lập cho
riêng họ hệ thống vệ tinh định vị khu vực Beidou, còn gọi là “Big
Dipper”, có thể phủ sóng khắp Biển Đông. Trong khi đó, dịch vụ kiểm soát
hàng hải (VTS) được đặt ở Trạm Giang với sự hỗ trợ của hệ thống vi tính
hiện đại và các radar được xây dựng dọc theo bờ biển phía tây Hải Nam
tại Dong Fang và Hải Khẩu, đa số mua của Công ty Hoa Kỳ Lockheed Martin nhằm
trang bị các phần cốt lõi của hệ thống hàng hải viễn liên. Trungcộng
cũng đặt mua một số hệ thống tình báo điện tử (ELINT) quan yếu để lắp
đặt trên đảo Hải Nam gồm có một trạm tại phía tây nam và một trạm ở bờ
biển phía đông nam thuộc căn cứ không quân Lăng Thủy (Lingshui), khu
liên hợp quân sự được thành lập vào năm 1968 và sau đó được mở rộng rất
nhiều vào năm 1995, với khoảng 1.000 chuyên gia phân tích tín hiệu ở
đây.
Để
hỗ trợ cho các hoạt động tàu ngầm ở khu vực này, một trạm vô tuyến tần
số thấp công suất cao đã được xây dựng ở Hải Nam vào năm 1965.
Một
căn cứ tàu ngầm ở Ngọc Lâm (Yulin) được nối kết chặt chẽ với tổng hành
dinh của các tàu nhỏ và tàu ngầm. Những trung tâm này bao gồm việc thông
tin vô tuyến tần số rất thấp (VLF) với tàu ngầm và các tàu mặt biển ở
vùng Biển Đông. Tính tới năm 1985, 5 trung tâm vô tuyến VLF được đặt ở
Phúc Châu (Fuzhou), Lữ Thuận Khẩu (Lushun), Ninh Ba (Ningbo), Trạm Giang
(Zhanjiang) và Ngọc Lâm (Yulin). Hệ thống quản lý giao thông vô tuyến
này còn giúp điều phối một cách hiệu quả các tàu ngầm quân sự đang di
chuyển trong vùng nước nông trên eo biển Quỳnh Sơn (Qiongzhou) nằm giữa
đảo Hải Nam và lục địa.
4. Theo
GS Bruce A. Elleman, quần đảo Hoàng Sa là nơi Trung cộng có các căn cứ
quân sự đứng thứ hai về tầm quan trọng chỉ sau Hải Nam xét về phương
diện hệ thống hỗ trợ điện tử vô tuyến. Ảnh chụp từ không gian trong
thập niên 80 cho thấy ở đây đã xuất hiện một chuỗi ăngten lớn gồm 16
chiếc, mỗi chiếc gồm 8 nhánh ăngten trời. Đây có thể là một trạm
VHF, nhưng lại được miêu tả rất khác nhau như là một ăngten thông tin vệ
tinh hay là một mảnh hình thánh giá của radar cảnh báo thế hệ cũ. Đảo
Phú Lâm hình như được trang bị một radar tiếp cận chính xác (PAR), tần
số X kiểu 791.
Tháng
6/2001, có một nguồn tin không chính thức cho rằng, Trung cộng đã đưa
tên lửa chống hạm HY-2 lên đảo Phú Lâm. Ngoài ra còn có thêm một khu đặt
súng cao xạ bắn máy bay ở đầu cuối phía bắc đảo Phú Lâm. Từ năm 1991, cả thảy đã có 67 chiến đấu cơ với tổng cộng 14 lần điều động đến đảo này.
Một lô cốt phòng thủ của Trung cộng tại quần đảo Hoàng Sa được sơn ngụy trang
Trong
khi đó một cảng thuộc đảo Quang Hòa Đông (Duncan) – đảo lớn thứ hai ở
Hoàng Sa đã được mở rộng với việc gia cố các công sự phòng thủ và lắp
đặt các trang thiết bị điện tử viễn thông. Mặc dù chưa thấy có tin tức
gì về các thiết bị vô tuyến được xây dựng trên đảo Duy Mộng, trọng tâm
của cuộc hải chiến Việt – Trung vào năm 1974, nhưng giữa năm 1995, một trạm thám báo vô tuyến mới được đưa vào hoạt động ở đảo Hòn Đá (Rocky) gần đảo Phú Lâm.
Dù
Trun cộng đã nhiều lần tuyên bố là sẽ không can thiệp vào việc tự do
đi lại của các tàu bè quốc tế, nhưng họ từ chối minh bạch hóa những vùng
nào mà họ tuyên bố là có chủ quyền. Bằng cách vẽ “đường yêu sách chín
đoạn” bao quanh quần đảo Hoàng Sa, Bắc Kinh rõ ràng đã đơn phương sáp
nhập vào họ các vùng lãnh hải và không phận thuộc vùng tự do đi lại quốc
tế từ xưa đến nay. Rất có thể Bắc Kinh sau này sẽ bắt buộc các tàu bè qua lại phải xin phép khi đi qua các vùng đang được tự do di chuyển hiện nay.
Dĩ nhiên là bây giờ Trung cộng chưa thể áp đặt một chính sách như thế
nhưng khi họ đủ mạnh, họ có thể sẽ thực hiện điều này. Việc Trung cộng
gia tăng sức mạnh quân sự và thám báo trên quần đảo Trường Sa khiến khả
năng có một chính sách kiểm soát qua lại trên Biển Đông nghiêm ngặt như
thế ngày càng trở nên hiện thực hơn.
Trong
quá khứ quần đảo Trường Sa gần như chỉ có lính đồn trú người Việt, cho
mãi đến Thế chiến II khi Nhật Bản xây dựng các công sự ở đảo đá Danger,
cồn Tizard và đảo Nam Yết; rất nhiều khu vực đó hiện nay đang có quân
đội Việt Nam và Philippines trú đóng. Đảo Ba Bình là một trong những đảo
nằm xa nhất về hướng Bắc của quần đảo Trường Sa và là một trong số rất
ít những đảo đủ lớn để xây dựng một sân bay và một căn cứ tàu ngầm. Đài
Loan vẫn tiếp tục chiếm giữ đảo Ba Bình và gần đây đã kéo dài đường băng
ở đấy để có thể tiếp nhận được những máy bay trọng tải lớn hơn.
Vào
thập niên 80, các cuộc tuần tra trên biển bằng các tàu nghiên cứu đại
dương đều được các tàu chiến Trung cộng hộ tống. Sau khi các tàu dân sự
và tàu khoa học thăm dò khu vực này vào tháng 10/1987,
Trung cộng đã đánh chiếm bãi đá Chữ Thập vào tháng 3/1988.
Năm
1988-1989, vài chục tàu chiến Trung cộng cũng tập trận lớn trùng với
việc chiếm đoạt thêm một số dải đá ngầm chiến lược ở quần đảo Trường
Sa.
Tới
thập niên 90, Trung cộng lại khởi công xây dựng các trạm đóng quân tạm
thời và các công trình bát giác bằng gỗ trên các cọc gỗ ở sáu rặng đá
ngầm và gọi đó là “những chòi trú bão”. Một căn cứ quân sự nhỏ khác cũng
được xây dựng ở bãi đá Gạc Ma.
Theo
các bức không ảnh, các nhà gỗ bát giác tạm thời này ban đầu được xây
trên những cọc gỗ nhưng đến năm 1989 thì bắt đầu được lắp đặt ăngten.
Trong
khi đó ở rặng đá Subi (Subi Reef), Trung cộng cho xây một trại lính và
một tòa nhà hai tầng cùng với một ăngten liên lạc vệ tinh. Trạm này
cũng có một sân đáp trực thăng và một cầu ximăng kiên cố với nhịp uốn
nối liền với tòa nhà sở chỉ huy.
Năm
1995, Trung cộng bắt đầu xây dựng trên bãi đá Vành Khăn (Mischief
Reef) và khoảng năm 2000, các bệ súng và các thiết bị điện tử chính được
lắp đặt thêm ở một tòa nhà nhỏ hơn ở phía bắc.
Các
cầu tàu, bãi đáp trực thăng và một số súng phòng không đã được dựng
lên, cùng với một hệ thống hoả tiển chưa xác định được là loại gì. Có
một vài báo cáo cho rằng, đó là những hỏa tiển chống hạm Silkworm.
Trong
khi đảo Hải Nam là nơi đồn trú tất cả các căn cứ hải quân và không quân
chủ lực, thì các phương tiện thiết bị nhỏ hơn nhiều ở quần đảo Trường
Sa và Hoàng Sa giúp liên lạc và thám báo cho các cuộc viễn chinh hàng
hải đầy tham vọng trong tương lai và cho các tàu ngầm Trung cộng thường
xuyên qua lại Biển Đông. Để hỗ trợ cho các tàu trên mặt biển, Trung
cộng đã dần dần tăng số lượng máy bay, tàu ngầm và hạm đội trong vùng
biển nóng bỏng này.
Đông Phương
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen