Thời
gian gần đây,
một số báo chí
trong nước đã
đồng loạt phổ
biến và đề cao
giá trị “hòa
hợp hòa giải”
của tấm ảnh
“hai người
lính”, mặc dù
nó đã xuất
hiện lần đầu
tiên vào năm
2007, trong
một cuộc triển
lãm tại Hà
Nội, với một
cái tên khá
hấp dẫn “Ước
Vọng Hòa
Bình”.
Tấm ảnh chụp hai người
lính, một
người lính
TQLC của miền
Nam (VNCH) và
một anh bộ đội
của miền Bắc
(Cộng Sản),
được tác giả
là Ông Chu Chí
Thành, nguyên
Trưởng Ban
Biên Tập, Sản
Xuất Ảnh Báo
Chí của Thông
Tấn Xã (Bắc
Việt), và cũng
là nguyên Chủ
Tịch Hội Nghệ
Sĩ Nhiếp Ảnh
VN, cho biết
là chính ông
đã chụp tại
lằn ranh chiến
tuyến Triệu
Phong, Quảng
Trị vào tháng
4/1973 sau
Hiệp Định
Paris (có hiệu
lực từ ngày
27.1.1973).
Tác giả bức
ảnh cũng như
một số báo chí
tại Việt Nam
đã (và đang)
đi tìm hai
nhân vật trong
tấm ảnh đặc
biệt này, mà
họ cho là biểu
tượng của “Ước
Vọng Hòa Bình”
và “Tinh Thần
Hòa Hợp Hòa
Giải Dân Tộc”
(!).
Cho đến hôm nay, tông
tích người
lính miền Bắc
đã được sáng
tỏ. Có điều là
anh đã qua đời
cách đây
khoảng 5, 6
năm. Không
biết trước khi
chết, anh có
còn nhớ người
lính miền Nam
đã choàng vai
anh rất thân
tình trong tấm
ảnh năm xưa,
bên đôi bờ
chiến tuyến,
và anh có ân
hận vì đã từng
“phải” cầm
súng bắn giết
đồng bào, anh
em ruột thịt
miền Nam, để
cuối cùng chỉ
tiếp tay gầy
dựng một chế
độ phi nhân,
một chính
quyền tham
nhũng, man rợ,
phản dân hại
nước như hôm
nay?
Còn anh lính miền Nam
kia thì giờ
này đang ở
đâu? “Bến Hải
hay Cà Mau?”.
Có lẽ anh đã
chết sau Hiệp
Định Paris,
ngay sau cái
ngày anh
choàng vai anh
bộ đội miền
Bắc với chút
hy vọng mong
manh: Hiệp
Định Paris
mang tên Hòa
Bình sẽ được
chính quyền CS
miền Bắc thực
thi, vì sinh
mạng của đồng
bào, vì hòa
bình của hai
miền dất nước?
Thân xác anh
có thể vùi
nông ở đâu đó,
bên dòng sông
Thạch Hãn hay
trên bờ biển
cát An Dương
(Thuận An)
trong giờ thứ
25 của cuộc
chiến. May mắn
hơn, nếu có
được nấm mồ
bên cạnh đồng
đội được an
táng trong
Nghĩa Trang
Quân Đội Biên
Hòa, thì cũng
đã bị chính
quyền “bên
thắng cuộc”
đập bia, phá
mộ, san bằng
từ lâu rồi.
Nếu còn sống,
chắc cũng đang
mang bao
thương tích cả
trên thân xác
lẫn trong tâm
hồn, bị chính
quyền “bên
thắng cuộc” kỳ
thị, truy bức.
Cũng có thể
anh là một
trong những
người thương
binh, lê lết
đến Dòng Chúa
Cứu Thế Sài
Gòn, mong được
nhận một chiếc
xe lăn, một
xuất khám bệnh
của những
người còn giữ
được tấm lòng,
nhưng đã bị
đám công an đe
dọa, ngăn cản,
đuổi xô trong
bước đường
cùng!
Là một người lính
TQLC, anh đã
được rèn luyện
trong tinh
thần kỷ luật
và tình “huynh
đệ chi binh”,
nếu còn sống,
chắc chắn anh
không hề muốn
lên tiếng,
nhận mình là
người trong
tấm ảnh, đang
được tung ra
nhằm lợi dụng
cho một chiến
dịch tuyên
truyền “Hòa
Hợp Hòa Giải”
một cách lố
bịch.
Tấm ảnh mà tác giả,
người từng là
Trưởng ban
Biên Tập, Sản
Xuất Ảnh của
Thông Tấn Xã
một nước, và
sau này là
ChủTịch Hội
Nghệ Sĩ Nhiếp
Ảnh Việt Nam,
cho là rất tâm
đắc, rất cảm
động, là tác
phẩm mang ý
nghĩa đặc biệt
nhất trong
cuộc đời nhiếp
ảnh, mà sao
ông phải “giấu
nhẹm” đến 34
năm, trong đó
có cả 32 năm
“chiến tranh
đã kết thúc,
hòa bình và
thống nhất
được thiết lập
trên cả nước”
? Bây giờ tấm
ảnh được tung
ra cùng một
lúc trên nhiều
tờ báo “lề
phải” vốn chỉ
làm theo lệnh
đảng, ông Chu
Chí Thành “vô
tư” trả lời
các cuộc phỏng
vấn, và lúc
nào ông cũng
gán cho tấm
ảnh cái “biểu
tượng của Tinh
thần Hòa Hợp
Hòa Giải”.
Ai có ước vọng hòa
bình, và ai
hòa hợp hòa
giải với ai?
Ngay từ tháng
4/ 1973, chính
người lính
miền Nam đã
can đảm, theo
lời mời của
một anh bộ đội
miền Bắc, đi
tay không sang
chiến tuyến
bên kia đang
có đầy súng
đạn và cả tên
lửa dưới các
giao thông hào
(theo lời kể
của ông Chu
Chí Thành), để
bắt tay cô “bộ
đội gái” và
choàng vai
chụp ảnh với
người “anh em
bên kia”,
trong niềm hy
vọng (dù rất
mong manh) là
Hiệp Định Hòa
Bình Paris sẽ
thực sự mang
lại hòa bình,
khi quân đội
Mỹ không còn
hiện diện trên
đất nước. Vậy
mà cái hòa
bình “giả tạo”
khốn kiếp ấy
không kéo dài
được quá hai
tháng! Chính
CS Bắc Việt,
với bản chất
xảo quyệt tráo
trở, lợi dụng
thời gian “hưu
chiến” này để
ồ ạt đưa đại
quân, chiến xa
và súng đạn
vào đánh chiếm
miền Nam, gieo
thêm bao nhiêu
tang tóc, để
cuối cùng tạo
nên một đất
nước khiếp
nhược, rệu rã
tất cả mọi
phương diện,
từ đạo đức,
giáo dục đến
kinh tế, để
nuôi béo đám
cường quyền
Cộng Sản thối
nát, hèn mạt
hôm nay. Vậy
mà cái chiêu
bài “đánh Mỹ
cứu nước” vẫn
có thể lường
gạt, làm mê
muội cả bao
nhiêu triệu
dân miền Bắc,
bởi năm 1973
không còn hiện
diện một người
lính Mỹ nào
tại chiến
trường miền
Nam!
Sau Hiệp Định Paris
1973, đơn vị
tôi trú đóng
tại Kontum.
Cũng có một
thời gian ngắn
“ngưng bắn
kiểu da beo”.
Chúng tôi được
một đơn vị CS
chính thức mời
sang “vùng tạm
chiếm” để
“liên hoan”.
Trong chúng
tôi không một
ai tin đó là
lòng thành
thật và sẽ có
hòa bình. Tuy
nhiên để tỏ
thiện chí (và
thăm dò), một
nhóm mười hai
người, dưới sự
hướng dẫn của
một vị trung
tá, cũng đươc
lệnh đi tay
không sang
vùng đất địch,
mang theo một
xe (Jeep) bánh
mì, thịt hộp,
bia và thuốc
lá Quân Tiếp
Vụ làm quà cho
những “người
anh em”. Chúng
tôi được một
“thủ trưởng”
mang “quân hàm
thượng tá”
tiếp đón. Tất
cả cùng “liên
hoan” với bánh
mì thịt, bia
và thuốc lá
của chúng tôi
mang đến. Dĩ
nhiên là chúng
tôi ăn trước
để họ tin là
không bị thuốc
độc. Sau đó
còn được mời
đấu giao hữu
bóng chuyền.
Cả đơn vị tôi
cùng một hợp
đoàn trực
thăng phải ứng
chiến sẵn sang
trong suốt
thời gian nhóm
mười hai người
“liên hoan”
trên phần đất
địch. (Bởi qua
bao nhiêu kinh
nghiệm máu
xương, đặc
biệt là cuộc
“hưu chiến” để
đồng bào mừng
Tết Mậu Thân
(1968) đã được
hai bên thỏa
thuận, vậy mà
Hồ Chí Minh
còn trực tiếp
ra lệnh tấn
công trá hình
bằng “lời chúc
Tết của bác”
trên đài phát
thanh Hà Nội.
Kế hoạch “tổng
tấn công và
nổi dậy” trên
khắp các thành
phố lớn miền
Nam đã bị thảm
bại, nhưng CS
đã giết biết
bao nhiêu
thường dân vô
tội. Đặc biệt
tại Huế, trước
khi rút lui,
CS còn ra lệnh
giết và chôn
sống tập thể
cả hàng vạn
người. Đến hôm
nay, Hoàng Phủ
Ngọc Tường,
một kẻ nhúng
tay vào cuộc
tắm máu đó,
đang phải sống
trong những
ngày thê
lương, hoảng
loạn, bởi ám
ảnh những oan
hồn).
Sau cuộc “liên hoan
mừng hòa bình”
đó không bao
lâu, thì CS
đồng loạt mở
các cuộc pháo
kích thật dữ
dội và tấn
công chúng
tôi, nhưng đều
thảm bại, vì
chúng tôi
không bất ngờ,
đã chuẩn bị
sẵn sàng. Khai
thác đám tù
binh bị bắt,
họ khai là
cuộc “liên
hoan” hôm ấy
chỉ là màn
kịch bịp do
cấp trên đạo
diễn, và tay
“thủ trưởng
mang quân hàm
thựợng tá”
tiếp chúng tôi
hôm ấy thực ra
chỉ là một anh
hạ sĩ. Còn tay
thượng tá
chính thức thì
đóng vai “cần
vụ”. Chúng tôi
không hề ngạc
nhiên về bản
chất xảo quyệt
của những
người CS.
Người dân miền Nam và
đặc biệt là
người lính
miền Nam, luôn
có ước vọng
hòa bình, luôn
mong ước dân
chúng hai miền
Nam Bắc được
sống trong hòa
bình, tự do và
hạnh phúc.
Chúng tôi
không hề muốn
chiến tranh,
chúng tôi chỉ
phải cầm súng
để tự vệ. Tính
nhân bản của
người lính
miền Nam được
thể hiện qua
tâm tư của một
người lính
từng phục vụ
trong một đơn
vị biệt kích,
nhà thơ nổi
tiếng Nguyễn
Bắc Sơn (vừa
qua đời ở Việt
Nam):
Đêm nằm ngủ võng trên đồi cát
nghe súng rừng
xa nổ cắc cù
chợt thấy
trong lòng
mình bát ngát
nỗi buồn sương
khói của mùa
thu
(Mật Khu Lê
Hồng Phong)
….
Kẻ thù ta ơi, những đứa xâm mình
ăn muối đá và
hăng say chiến
đấu
Ta vốn hiền khô, ta là lính cậu
đi hành quân
với rượu đế
mang theo
mang trong đầu
những ý nghĩ
trong veo
xem chiến cuộc
như tai trời
ách nước
Ta bắn trúng ngươi vì ngươi bạc phước
vì căn phần
ngươi xui
khiến đó thôi
chiến tranh
này cũng chỉ
một trò chơi
suy nghĩ làm
gì lao tâm khổ
trí
(Chiến Tranh
Và Tôi)
Người dân miền Nam,
trong đó có cả
hơn một triệu
người miền Bắc
đã phải bỏ quê
hương di cư
vào Nam năm
1954 cùng con
cháu sau này,
cầm súng chỉ
để tự vệ,
không hề gây
chiến tranh
bên kia bờ Bến
Hải. Vậy ai là
kẻ gây ra
chiến tranh để
giết hàng mấy
triệu người
“anh em” của
hai miền Nam
Bắc, làm tan
hoang cả đất
nước, và điêu
linh khốn khổ
cho cả một dân
tộc?
Bà Dương Thu Hương,
một đảng viên,
nhà báo Cộng
Sản, trên
đường vào
“tiếp thu”
thành phố Sài
gòn trong
những ngày
cuối tháng
4/75, khi đến
ranh giới miền
Nam, nhìn thấy
sự văn minh,
phồn thịnh,so
với miền Bắc
XHCN, đã ngồi
bên lề đường
bật khóc, đau
đớn nhận ra:
Kẻ man rợ đã
thắng!
Người Cộng Sản, Đảng
Cộng Sản Việt
Nam là một vết
nhơ lớn nhất
trong lịch sữ,
mang trọng tội
với dân tộc.
Tấm ảnh hai
người lính là
một chứng tích
tráo trở, lừa
bịp, soi sáng
thêm tội ác
của người CS.
Đó không thể
là một “biểu
tượng của tinh
thần Hòa Hợp
Hòa Giải Dân
Tộc.” Bởi dân
tộc này không
cần phải hòa
hợp hay hòa
giải. Chỉ có
những người
Cộng Sản luôn
gây hận thù
chia rẽ và tạo
quyền lực
tuyệt đối cho
riêng mình
bằng bạo lực ,
đứng trên pháp
luật, bất chấp
mọi thủ đoạn
bẩn thỉu, man
rợ, để đè đầu
cỡi cổ, bịt
miệng cả một
dân tộc Việt
nam khốn khổ.
nghe súng rừng xa nổ cắc cù
chợt thấy trong lòng mình bát ngát
nỗi buồn sương khói của mùa thu
(Mật Khu Lê Hồng Phong)
….
ăn muối đá và hăng say chiến đấu
đi hành quân với rượu đế mang theo
mang trong đầu những ý nghĩ trong veo
xem chiến cuộc như tai trời ách nước
vì căn phần ngươi xui khiến đó thôi
chiến tranh này cũng chỉ một trò chơi
suy nghĩ làm gì lao tâm khổ trí
(Chiến Tranh Và Tôi)
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen