07.07.2015
Liên quan đến các âm mưu xâm lấn của Trung Quốc trên Biển
Đông, một số giới chức Việt Nam, trong đó, gần đây nhất là Phó thủ tướng Vũ Đức Đam, và
Thượng tướng Huỳnh Ngọc Sơn, Phó chủ tịch
Quốc Hội, thành thực nhìn nhận là họ không thể chiếm lại được những gì đã mất
vào tay Trung Quốc. Một số người còn nói thêm: Nếu đời nay chúng ta không lấy
lại được thì con cháu của chúng ta sẽ làm việc đó.
Trên các diễn đàn xã hội, rất nhiều người phê phán một cách
gay gắt luận điệu ấy. Họ cho nói vậy là hèn, là nhục, thậm chí, là bán nước. Họ
nêu đích danh những người phát ngôn để chửi. Tôi thông cảm với những sự phẫn nộ
ấy. Nhưng tôi cho những lời kết án cũng như chửi rủa ấy là đổ oan. Lý do là
không phải chỉ có những người ấy mới có cách suy nghĩ như vậy. Thật ra, đó là
cách suy nghĩ chung, hơn nữa, là chính sách chung của cả giới cầm quyền Việt Nam
hiện nay.
Dĩ nhiên, giới cầm quyền hiếm khi nói thẳng ra như vậy. Nói
như vậy chẳng khác gì một lời tuyên bố đầu hàng. Nhưng chỉ cần chú ý một chút,
chúng ta sẽ nhận ra ngay điều đó. Chính sách của Việt Nam đối với Biển Đông là
gì? Rất khó biết được bởi chưa có ai trình bày một cách công khai, hệ thống và
cụ thể cả. Nhưng trong những lời phát biểu đây đó, chúng ta bắt gặp một sợi chỉ
đỏ xuyên suốt toàn bộ các lập trường của Việt Nam đối với các vấn đề trên Biển
Đông: “giữ nguyên trạng” và “không làm phức tạp hoá” vấn đề để có thể dẫn đến
xung đột vũ trang.
Trong mấy cách diễn tả trên, quan trọng nhất là nhóm từ “giữ
nguyên trạng” (status quo). Trong bài “The South China Sea: Defining the ‘Status
Quo’”, Andrew Chubb cho đó là từ được nhiều quốc gia lặp
đi lặp lại nhưng đó cũng là một từ rất mơ hồ với những cách nhìn và cách nghĩ có
khi khác hẳn nhau. Giới chức cao cấp của Mỹ cũng như các quốc gia quan tâm đến
tình hình Biển Đông, trong đó, có cả Úc, thường kêu gọi các quốc gia liên hệ ở
Biển Đông đừng “làm thay đổi nguyên trạng qua các hình thức bạo lực hoặc cưỡng
ép”. Giới lãnh đạo Nhật và Philippines cũng vậy: Họ cũng phản đối các nỗ lực đơn
phương làm thay đổi “nguyên trạng” trên các hòn đảo trên Biển Đông và biển Hoa
Đông. Điều đáng ngạc nhiên là chính Việt Nam cũng tham gia vào giàn đồng ca ấy
bằng những lời kêu gọi các nước tự kiềm chế, đừng làm phức tạp hoá vấn đề bằng
cách thay đổi “nguyên trạng” trên các bãi đá và các rạn san hô ở Biển
Đông.
Tại sao các nước khác kêu gọi “giữ nguyên trạng” thì được mà
Việt Nam thì không?
Trả lời câu hỏi này không khó. Với Nhật, “giữ nguyên trạng” là
hòn đảo Senkaku/Điếu Ngư vẫn thuộc về họ; với Philippines, là bãi cạn
Scarborough và một số hòn đảo và bãi đá ở Trường Sa vẫn thuộc về họ; với
Malaysia, là bảy bãi đá và rạn san hô ở Trường Sa vẫn thuộc về họ; với Đài Loan,
đảo Ba Bình và bãi Bàn Than vẫn thuộc về họ. Ngay với Trung Quốc, quốc gia duy
nhất đòi thay đổi cái gọi là “nguyên trạng” ấy bằng cách không ngừng tìm cách
cải tạo các bãi đá và rạn san hô thành đảo nhân tạo cũng như âm thầm mưu toan
lấn chiếm thêm các hòn đảo khác, cũng muốn “giữ nguyên trạng” ở một địa điểm:
quần đảo Hoàng Sa.
Còn Việt Nam? Yêu sách “giữ nguyên trạng” của Việt Nam thực
chất là thừa nhận hai điều: thứ nhất, Hoàng Sa là của Trung Quốc; và thứ hai,
các hòn đảo và bãi đá ở Trường Sa mà Trung Quốc chiếm cứ từ Việt Nam vào năm
1988 cũng thuộc về Trung Quốc.
Nói cách khác, lập trường của chính phủ Việt Nam trong vấn đề
Biển Đông là: Một, từ bỏ ý định đòi lại Hoàng Sa cũng như các hòn đảo, bãi đá và
rạn san hô ở Trường Sa mà Trung Quốc đã chiếm của Việt Nam. Hai, họ chỉ muốn
ngăn chận xu hướng bành trướng thêm của Trung Quốc qua các việc: (1) cải tạo các
bãi đá và rạn san hô thành đảo nhân tạo; (2) trên cơ sở các hòn đảo nhân tạo ấy,
đòi mở mở rộng chủ quyền trên lãnh hải mà cụ thể nhất là hợp thức hoá con đường
lưỡi bò (hay con đường chín đoạn); và cuối cùng (3), hợp thức hoá vùng nhận dạng
hàng không tương ứng với con đường lưỡi bò ấy.
Lập trường ấy, thật ra, không phải hoàn toàn sai. Trong hoàn
cảnh và với tương quan lực lượng hiện nay, cần thực tế để nhận ra một điều: Việc
chiếm lại Hoàng Sa và các hòn đảo, bãi đá và rạn san hô ở Trường Sa mà Trung
Quốc đã chiếm của Việt Nam là một điều bất khả. Việt Nam không thể làm được điều
đó. Mà cũng không có quốc gia nào, kể cả Mỹ, có thể giúp Việt Nam làm được điều
đó. Trong bài “Serenity in the South China Sea”, Gareth Evans, cựu Ngoại trưởng của
Úc, nhấn mạnh: Mỹ cần phải chấp nhận một thực tế là, với những sức mạnh về kinh
tế và quân sự hiện nay, Trung Quốc đã nổi lên như một cường quốc trong khu vực
và cái thời mà Mỹ làm bá chủ duy nhất ở vùng châu Á – Thái Bình Dương đã qua
rồi. Ông cũng nhấn mạnh thêm: Mỹ không có cách gì có thể ngăn chận được việc
Trung Quốc cải tạo các hòn đảo nhân tạo ở Trường Sa và sau đó, quân sự hoá các
hòn đảo ấy. Điều Mỹ có thể làm là ngăn chận việc nhân danh các hòn đảo nhân tạo
ấy, Trung Quốc tuyên bố mở rộng chủ quyền trên lãnh hải chung quanh chúng, từ
đó, hợp thức hoá con đường lưỡi bò chiếm đến 80% toàn bộ diện tích của Biển
Đông.
Điều Mỹ không thể làm được, Việt Nam lại càng không có sức để
làm. Tuy nhiên, việc từ bỏ ý định đòi lại Hoàng Sa và các hòn đảo, bãi đá và rạn
san hô trong quần đảo Trường Sa mà Trung Quốc đã chiếm của Việt Nam vẫn là một
tính toán sai lầm. Sai về phương diện pháp lý: Nó mặc nhiên thừa nhận chủ quyền
của Trung Quốc trên các thực thể ấy. Nhưng quan trọng nhất là sai về phương diện
chính trị: Nó giảm sức ép đối với Trung Quốc để Trung Quốc rảnh tay nhắm đến
việc thực hiện các ý đồ mới của họ trên Biển Đông.
Bởi vậy, theo tôi, dù trên thực tế, chúng ta không thể lấy lại
Hoàng Sa và một số hòn đảo tại Trường Sa, chúng ta vẫn cứ phải lớn tiếng đòi hỏi
điều đó để cả thế giới biết rõ dã tâm xâm lược và bành trướng của Trung Quốc
trên Biển Đông để từ đó, chúng ta mới có thể tập hợp được thế liên minh và sự
hợp tác của các quốc gia khác trên thế giới trong trận chiến đối đầu với những
âm mưu xâm lấn mới của Trung Quốc.
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen