Thứ tư, 10/06/2015, 13:31 (GMT+7)
Bài
viết này của nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc (giáo sư Nguyễn Hưng
Quốc, Australia), được đăng trên trang VOA ngày 10/06/2015 đưa ra những
lý do Việt Nam cần “cám ơn” những hành động ngang ngược, hống hách của
Trung Quốc trên biển Đông. Mời quý độc giả tham khảo.
Từ
đầu năm 2014 đến nay, Trung Quốc ra sức bồi đắp và tái tạo các bãi đá
ngầm thuộc quần đảo Trường Sa mà họ chiếm của Việt Nam vào năm 1988
thành những hòn đảo nhân tạo đủ lớn để làm căn cứ quân sự với hải cảng
và phi trường cho các loại máy bay, kể cả máy bay phản lực.
Báo
chí Tây phương xem những hòn đảo nhân tạo này như một vạn lý trường
thành bằng cát Trung Quốc sẽ sử dụng như những căn cứ quân sự nhằm chiếm
cứ các hòn đảo còn lại ở Trường Sa và khống chế toàn bộ Biển Đông. Hầu
như ai cũng nhận định giống nhau: đó là những việc làm nguy hiểm có thể
đẩy các tranh chấp trong khu vực thành những xung đột vũ trang giữa
Trung Quốc và các quốc gia liên hệ gồm Việt Nam, Philippines, Malaysia
và Brunei cũng như, sau các quốc gia ấy, là Mỹ và các đồng minh của Mỹ.
Lầu Năm góc đã báo động việc Trung Quốc cải tạo đá trên biển Đông
Những
nguy hiểm ấy dĩ nhiên là có thật. Tuy nhiên, một mặt, tôi không mong
chiến tranh sẽ bùng nổ, mặt khác, tôi lại cho những việc xây dựng ấy là
“điều may mắn” cho Việt Nam.
May mắn thứ nhất là
chúng thu hút sự quan tâm của quốc tế trước các âm mưu bành trướng của
Trung Quốc ở Đông Nam Á. Trước, ai cũng biết Trung Quốc có tham vọng
chiếm gần trọn Biển Đông. Họ không hề giấu giếm tham vọng ấy. Nó được
công khai hoá qua con đường 9 đoạn hoặc con đường lưỡi bò mà họ công bố
trước thế giới.
Tuy nhiên, người ta vẫn xem lời
tuyên bố ấy như những dự định và với dự định, cuộc chiến chỉ dừng lại
phạm vi ngôn ngữ, hay nói cách khác, những cuộc khẩu chiến. Bây giờ, với
việc xây dựng các hòn đảo nhân tạo, người ta nhận ra dự định ấy không
phải chỉ là một ước mơ. Nó đang được Trung Quốc biến thành hiện thực và
hiện thực ấy khiến cho thế giới không khỏi lo lắng.
Hệ quả đầu tiên là phần lớn các quốc gia thuộc khối ASEAN (trừ Lào và Campuchia) cảm nhận rõ hơn nguy cơ xâm lấn của Trung Quốc và từ đó, đoàn kết hơn trong nỗ lực chống lại dã tâm xâm lấn ấy.
May mắn thứ hai là
chúng thúc đẩy Mỹ phải chính thức nhảy vào cuộc tranh chấp trên Biển
Đông. Trong mấy tháng vừa qua Mỹ thường xuyên theo dõi sát sao mọi
chuyển biến trong quá trình xây dựng đảo nhân tạo của Trung Quốc ở
Trường Sa.
Trong cuộc hội nghị thượng đỉnh về an ninh châu Á – Thái Bình Dương ở Shangri-la, Singapore, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ashton Carter phê phán một cách thẳng thắn và gay gắt các hành động khiêu khích của Trung Quốc trên Biển Đông. Sự phê phán của Mỹ nhận được sự hỗ trợ mạnh mẽ của hai quốc gia đồng minh là Nhật và Úc.
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Carter kêu gọi “dừng ngay lập tức và lâu dài việc cải tạo đất” ở Biển Đông
Trong
chuyến đi thăm Việt Nam ngay sau đó, Bộ trưởng Ashton Carter và Bộ
trưởng Quốc phòng Việt Nam, Phùng Quang Thanh đã ký bản “Tuyên bố tầm nhìn chung về quan hệ quốc phòng” nhằm định hướng cho việc phát triển quan hệ giữa hai nước trong tình hình mới.
Liên quan đến quốc phòng, có hai sự kiện mới đáng chú ý trong quan hệ song phương ấy:Một là, Mỹ sẽ viện trợ cho Việt Nam 18 triệu USD để mua tàu tuần tra cao tốc của Mỹ; và hai là, cả
Bộ trưởng Carter lẫn Thượng nghị sĩ John McCain đều hứa hẹn Mỹ có thể
sẽ nới lỏng hơn nữa việc bán vũ khí cho Việt Nam để Việt Nam có thể tự
vệ trong các cuộc tranh chấp trên Biển Đông.
May mắn thứ ba, là
việc xây dựng các hòn đảo nhân tạo tại Trường Sa sẽ “thức tỉnh” giới
lãnh đạo Việt Nam. Năm ngoái, khi Trung Quốc cho giàn khoan Hải Dương
981 vào thềm lục địa Việt Nam, có lẽ chính quyền Việt Nam phần nào nhận
thấy sự nghiêm trọng của cuộc chiến bảo vệ Biển Đông. Việc lặp lại các
khẩu hiệu về “4 tốt, 16 chữ vàng” có chiều hướng giảm dần.
Nhưng dù sao việc mang giàn khoan vào thềm lục địa Việt Nam cũng ít nguy hiểm hơn việc xây dựng các hòn đảo nhân tạo và quân sự hoá chúng:
từ các căn cứ ấy, việc đánh chiếm các hòn đảo khác ở Trường Sa do Việt
Nam làm chủ sẽ trở thành dễ dàng hơn rất nhiều. Đó là chưa kể đến việc, trên
cơ sở sự hiện hữu của các hòn đảo nhân tạo ấy, Trung Quốc sẽ tuyên bố
thành lập vùng nhận diện hàng không trên toàn bộ Biển Đông.
Khi
cho việc xây dựng các hòn đảo nhân tạo ở Trường Sa sẽ “thức tỉnh” giới
lãnh đạo Việt Nam, tôi có hai hàm ý: Một, trước đó, họ chưa biết; và
hai, họ quan tâm và tha thiết đến việc bảo vệ chủ quyền cũng như sự toàn
vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
Với hàm ý thứ hai, tôi cho rằng có hai trường hợp: Một, các lãnh đạo biết nhưng mức độ còn hạn chế, chưa thấy hết toàn cảnh những hiểm hoạ đến từ phương Bắc; hai,
các lãnh đạo biết nhưng cố gắng theo đuổi sách lược kềm chế và nhân
nhượng với hy vọng có đủ thời gian để tìm liên minh cũng như trang bị
thêm khí giới chuẩn bị cho những chiến tranh mà theo một số quan sát
viên quốc tế, “không thể tránh khỏi”.
G7 ra thông cáo phản đối Trung Quốc tiếp tục cải tạo đá trên biển Đông
Tuy nhiên, sách lược kềm chế và nhân nhượng cũng phải có giới hạn của chúng: kềm chế và nhân nhượng đến mức nào?
Gần đây, trong bài Phải ấn định một lằn ranh cho Trung Quốc, nhà báo Ngô Nhân Dụng cũng đặt ra vấn đề tương tự. Ông viết:
“Người Việt Nam phải xác định một lằn ranh, nếu Trung Quốc bước qua thì
sẽ phản ứng quyết liệt. Chính phủ Việt Nam phải kiên quyết bảo vệ chủ
quyền dân tộc, không thể để cho Trung Quốc tiếp tục lấn lướt.
Phải xác định trước cả thế giới “lằn ranh” của lòng kiên nhẫn. Nêu rõ
những hành động nào của Trung Quốc sẽ được coi là bước qua lằn ranh đó,
công bố cho cả vùng Ðông Nam Á và các cường quốc có quyền lợi trong vùng
biết rõ. Lằn ranh này được xác định là “bước đường cùng” tới đó thì
nước Việt Nam sẽ hành động và cảnh báo trước rằng, nếu Bắc Kinh bước qua
lằn ranh đó thì sẽ “sinh chuyện lớn.”
Vì vậy, tôi cho rằng những sự kiện vừa xảy ra là một điều “may mắn” và chúng ta cần “cám ơn” Trung Quốc là vì thế.
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen