Oct 08, 2013 · Về Đây Anh Người ơi nước Nam của người Việt Nam Vì đâu oán tranh để lòng nát tan Đây bến Hải là nơi ngăn cách đôi.....
Mỗi lần nghe lại bài hát Về Đây Anh, hỏi ai lòng không chùng xuống ?
DgN
BS. HỒ VĂN CHÂM
Cá nhân tôi đã gặp Bs Hồ Văn Châm đáng kính !
Năm 1980, sau hơn 9 tháng bị biệt giam ở Khám lớn Chí Hoà, tôi cùng hơn 30 chiến hữu trong Ban Hành Động ở Suối Máu được lịnh hôm sau di chuyển ra A.20 Xuân Phước. Để chuẩn bị lên đường, trước 1 ngày, các anh em được phép tắm rửa và nhốt chung một phòng lớn ở tầng 1.
Vào khoảng trưa ngày 21-10-1979, bất ngờ Bs Hồ Văn Châm và một người bạn đồng tù có một công an dẫn tới phòng giam chung của anh em chúng tôi, tay khệ nệ mang theo mấy bịch quà cáp... Bs Châm nói : Chào các anh em Sĩ Quan ! Nghe nói ngày mai các anh em chuyển trại đi lao động, chúng tôi có xin phép cán bộ trại chia xẻ cho các anh em một số quà cáp của chúng tôi vừa mới được thăm nuôi... tặng quý anh em !
Thế là cả phòng anh em vui mừng chạy tới bắt tay Bs Châm và người bạn.
Tất cả đồng cười vui vẻ. Qua lại đôi lời rồi tên CA kéo 2 ông ra, đóng cửa phòng lại. Sau đó, bọn CA bảo chúng tôi cử 2 người đem tất cả quà tặng gồm có bột bích chi, đường linh tinh... xuống nhà bếp nấu một nồi chè bự... Còn kẹo bánh, thuốc lá chia nhau nguời vài điếu...
Hình ảnh nụ cười và khoé mắt dịu dàng cùng giọng nói thân thiết của Bs Châm mãi mãi chúng tôi không bao giờ quên ! (GÓPGIÓ)
Dư Hương Ngọt Ngào
Minh Vũ Hồ Văn Châm
(BS. Hồ Văn Châm, một thời là Bộ Trưởng Chiêu Hồi)
Bài đọc suy gẫm:
“Dư Hương Ngọt Ngào” tức bài viết về Chương Trình Chiêu Hồi rất thành
công của Việt Nam Cộng Hòa trong thời chiến do tác giả Minh Vũ Hồ Văn
Châm ghi lại. Hình ảnh chỉ là minh họa.
Về Đây Anh
Nguyễn Hiền- Nhật Bằng
Trích: Người ơi ước mong ngày tàn chinh chiến
Ðể toàn dân sống trong cuộc đời ấm êm
Ta nhắn gửi về nơi quê cũ xa vời
Hỡi ai lạc bước mau quay về đây
Chương
trình Chiêu Hồi của Việt Nam Cộng Hòa được xây dựng và tiến hành trên
nền tảng chính sách Đại Đoàn Kết Dân Tộc. Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa
chủ trương lấy tình thương xóa bỏ hận thù, chân thành mở rộng vòng tay
đón tiếp những anh chị em ruột thịt chiến đấu trong hàng ngũ cộng sản,
lầm lạc phục vụ chủ nghĩa cộng sản mà tưởng là phục vụ quyền lợi quốc
gia dân tộc. Tất cả các cán binh cộng sản ra hồi chánh, bất kể quá trình
hoạt động bản thân trong hàng ngũ cộng sản như thế nào, nếu ý thức sự
lầm lạc trong quá khứ, và nhiệt tình phục vụ lý tưởng tự do dân chủ, đều
được phục hồi đầy đủ quyền công dân và hội nhập trọn vẹn vào cộng đồng
dân tộc.
Cơ quan phụ trách chương trình Chiêu Hồi.
Chương
trình Chiêu Hồi bắt đầu hoạt động vào cuối năm 1962, dưới thời Tổng
Thống Ngô Đình Diệm. Cơ quan phụ trách chương trình Chiêu Hồi là một
phân ban của Bộ Công Dân Vụ, gọi là Phân Ban Chiêu Hồi, có đẳng cấp
tương đương với một Nha thuộc Bộ.
Sau
chính biến 1-11-1963, Phân Ban Chiêu Hồi được chuyển sang thống thuộc
Phủ Thủ Tướng. Đến năm 1965, với Ủy Ban Hành pháp Trung ương, chương
trình Chiêu Hồi được giao cho Bộ Thông Tin phụ trách, có đẳng cấp tương
đương với một Tổng Nha, do Thứ Ủy Chiêu Hồi cầm đầu.
Năm 1967, cơ quan phụ trách chương trình Chiêu Hồi được nâng lên cấp bộ, gọi là Bộ Chiêu Hồi, do Tổng Trưởng Chiêu Hồi cầm đầu, có Phụ Tá Tổng Trưởng Chiêu Hồi giúp việc.
Năm 1967, cơ quan phụ trách chương trình Chiêu Hồi được nâng lên cấp bộ, gọi là Bộ Chiêu Hồi, do Tổng Trưởng Chiêu Hồi cầm đầu, có Phụ Tá Tổng Trưởng Chiêu Hồi giúp việc.
Tháng 2 năm 1974, Bộ Chiêu Hồi được bãi bỏ, chương trình Chiêu Hồi do Tổng Cục Chiêu Hồi thuộc Bộ Dân Vận Chiêu Hồi phụ trách.
Điều đáng lưu ý là chương trình Chiêu Hồi không phải chỉ một mình Bộ Chiêu Hồi chịu trách nhiệm thi hành. Bộ Chiêu Hồi chủ yếu phụ trách mặt nổi của chương trình, như tuyên vận, tiếp nhận, huấn chính, phục hoạt. Trong thực tế, nhiệm vụ chính của Bộ Chiêu Hồi là phối hợp hoạt động của nhiều cơ quan chính phủ như Quân Đội, Cảnh Sát, Tình Báo, Thông Tin, Ngoại Giao, Tư Pháp, và quân đội đồng minh, để tiến hành chương trình Chiêu Hồi trong khuôn khổ chương trình Bình Định và Phát Triển, đặc biệt là về mặt tuyên vận chính nghĩa chống chuyên chính vô sản, và về mặt khai dụng người hồi chánh để nắm vững địch tình.
Điều đáng lưu ý là chương trình Chiêu Hồi không phải chỉ một mình Bộ Chiêu Hồi chịu trách nhiệm thi hành. Bộ Chiêu Hồi chủ yếu phụ trách mặt nổi của chương trình, như tuyên vận, tiếp nhận, huấn chính, phục hoạt. Trong thực tế, nhiệm vụ chính của Bộ Chiêu Hồi là phối hợp hoạt động của nhiều cơ quan chính phủ như Quân Đội, Cảnh Sát, Tình Báo, Thông Tin, Ngoại Giao, Tư Pháp, và quân đội đồng minh, để tiến hành chương trình Chiêu Hồi trong khuôn khổ chương trình Bình Định và Phát Triển, đặc biệt là về mặt tuyên vận chính nghĩa chống chuyên chính vô sản, và về mặt khai dụng người hồi chánh để nắm vững địch tình.
Tổ chức Điều hành.
Ở
cấp trung ương, Tổng Trưởng Chiêu Hồi được sự giúp đỡ của Phụ Tá Tổng
Trưởng Chiêu Hồi về mặt công tác, của Tổng Thư Ký về mặt hành chánh, của
Thanh Tra Trưởng điều khiển Khối Thanh Tra và Lượng Giá, và của Phụ Tá
Kế Hoạch đảm trách Khối Kế Hoạch Chương Trình. Ngoài Văn Phòng Tổng
Trưởng và các Nha Quản Trị, Công Tác, Phục Hoạt, Pháp Chế, Tiếp Nhận, và
An Ninh Tình Báo, ở cấp trung ương còn có Trung Tâm Chiêu Hồi Trung
Ương ở Thị Nghè và Trung Tâm Huấn Nghệ Trung Ương ở Biên Hòa. Các nha
được chia thành sở, sở chia thành phòng, phòng chia thành ban.
Ở cấp quân khu có Văn Phòng Đại Diện Chiêu Hồi và Trung Tâm Chiêu Hồi cấp quân khu.
Ở cấp tỉnh có Ty Chiêu Hồi do Trưởng Ty điều khiển, và Trung Tâm Chiêu Hồi cấp tỉnh. Riêng Đô Thành Sài Gòn có Sở Chiêu Hồi do một Chánh sự vụ điều khiển.
Ở cấp quận có Chi Chiêu Hồi do Trưởng Chi cầm đầu. Cấp quận không có trung tâm tiếp nhận thường trực.
Ngành Chiêu Hồi không có cán bộ cấp xã. Phần vụ chiêu hồi ở xã do cán bộ Thông Tin phụ trách.
Nhân viên Bộ Chiêu Hồi ước chừng 11.000 người, gồm công chức chính ngạch, công nhật, hợp đồng, quân nhân biệt phái, cán bộ chiêu hồi, và 90 đại đội võ trang tuyên truyền tuyển chọn trong số cán binh cộng sản ra hồi chánh.
Ở cấp quân khu có Văn Phòng Đại Diện Chiêu Hồi và Trung Tâm Chiêu Hồi cấp quân khu.
Ở cấp tỉnh có Ty Chiêu Hồi do Trưởng Ty điều khiển, và Trung Tâm Chiêu Hồi cấp tỉnh. Riêng Đô Thành Sài Gòn có Sở Chiêu Hồi do một Chánh sự vụ điều khiển.
Ở cấp quận có Chi Chiêu Hồi do Trưởng Chi cầm đầu. Cấp quận không có trung tâm tiếp nhận thường trực.
Ngành Chiêu Hồi không có cán bộ cấp xã. Phần vụ chiêu hồi ở xã do cán bộ Thông Tin phụ trách.
Nhân viên Bộ Chiêu Hồi ước chừng 11.000 người, gồm công chức chính ngạch, công nhật, hợp đồng, quân nhân biệt phái, cán bộ chiêu hồi, và 90 đại đội võ trang tuyên truyền tuyển chọn trong số cán binh cộng sản ra hồi chánh.
Quản trị Tài chánh
Khi
còn là Phân Ban Chiêu Hồi, các chi phí về chương trình Chiêu Hồi liên
quan đến người Hồi Chánh do Quỹ Tạm Ứng Chiêu Hồi đài thọ. Quỹ này là
một quỹ ngoại ngân sách do viện trợ Mỹ yểm trợ (1). Các chi phí điều
hành (lương nhân viên, trụ sở, vật liệu, văn phòng phẩm) thì do Bộ sở
quan (Bộ Công dân vụ, Phủ Thủ Tướng, Bộ Thông Tin) đảm trách.
Khi trở thành một bộ, Bộ Chiêu Hồi có ngân sách riêng, có quy chế và thể lệ dự trù, duyệt xét, chi tiêu, thanh lý, hậu kiểm, y hệt ngân sách các bộ khác của chính phủ. Ngân sách này có 2 phần:
· Phần ngân sách quốc gia phụ trách việc chi trả các khoản điều hành.
· Phần ngân sách viện trợ Mỹ chi trả các khoản liên quan đến người Hồi Chánh: tuyên vận, tiếp nhận, tưởng thưởng, nuôi ăn, may mặc, huấn chính, huấn nghệ, hoàn hương (trở về làng cũ), định cư (thiết lập làng mới), và lương và công tác phí cho các đội viên võ trang tuyên truyền.
Việc quản trị và thanh lý các ngân khoản thuộc phần ngân sách quốc gia được thực hiện theo thể lệ tài chánh quốc gia. Đối với phần ngân sách ngoại viện, Bộ Chiêu Hồi không trực tiếp chi dụng và quyết toán, mà ủy ngân cho các tỉnh để các Trưởng Ty chi dụng và thanh lý với Ty Tài Chánh tỉnh, theo thể thức chi tiêu đặc biệt ‘xây dựng nông thôn’. Ngoài ra, Ty Chiêu Hồi còn được Kho Xây Dựng Nông Thôn địa phương yểm trợ trực tiếp ‘thực phẩm phụng sự hòa bình’ và ‘vật liệu xây dựng nông thôn’, theo quyết định của Tỉnh Trưởng, ngoài sự kiểm soát của Bộ Chiêu Hồi (2).
Ngân sách hàng năm của Bộ Chiêu Hồi (thời gian 1967-1974) trung bình chừng khoảng 500-600 triệu đồng Việt Nam phần ngân sách quốc gia, và chừng khoảng 600-700 triệu đồng Việt Nam phần ngân sách ngoại viện.
Khi trở thành một bộ, Bộ Chiêu Hồi có ngân sách riêng, có quy chế và thể lệ dự trù, duyệt xét, chi tiêu, thanh lý, hậu kiểm, y hệt ngân sách các bộ khác của chính phủ. Ngân sách này có 2 phần:
· Phần ngân sách quốc gia phụ trách việc chi trả các khoản điều hành.
· Phần ngân sách viện trợ Mỹ chi trả các khoản liên quan đến người Hồi Chánh: tuyên vận, tiếp nhận, tưởng thưởng, nuôi ăn, may mặc, huấn chính, huấn nghệ, hoàn hương (trở về làng cũ), định cư (thiết lập làng mới), và lương và công tác phí cho các đội viên võ trang tuyên truyền.
Việc quản trị và thanh lý các ngân khoản thuộc phần ngân sách quốc gia được thực hiện theo thể lệ tài chánh quốc gia. Đối với phần ngân sách ngoại viện, Bộ Chiêu Hồi không trực tiếp chi dụng và quyết toán, mà ủy ngân cho các tỉnh để các Trưởng Ty chi dụng và thanh lý với Ty Tài Chánh tỉnh, theo thể thức chi tiêu đặc biệt ‘xây dựng nông thôn’. Ngoài ra, Ty Chiêu Hồi còn được Kho Xây Dựng Nông Thôn địa phương yểm trợ trực tiếp ‘thực phẩm phụng sự hòa bình’ và ‘vật liệu xây dựng nông thôn’, theo quyết định của Tỉnh Trưởng, ngoài sự kiểm soát của Bộ Chiêu Hồi (2).
Ngân sách hàng năm của Bộ Chiêu Hồi (thời gian 1967-1974) trung bình chừng khoảng 500-600 triệu đồng Việt Nam phần ngân sách quốc gia, và chừng khoảng 600-700 triệu đồng Việt Nam phần ngân sách ngoại viện.
Thành quả chiêu hồi về mặt tiếp nhận
Từ ngày bắt đầu thi hành chương trình vào cuối năm 1962 đến ngày 30-04-1975 đã có khoảng 230.000 cán binh cộng sản ra hồi chánh.
Những năm đầu (1963-1965) và năm cuối (1974) số người ra hồi chánh hàng năm chỉ có chừng vài nghìn. Số người ra hồi chánh lên cao đến 15.000-43.000 mỗi năm trong khoảng thời gian chính phủ Việt Nam Cộng Hòa tiến hành chương trình Bình Định và Phát Triển từ 1968 đến 1972. Số người ra hồi chánh cao nhất là vào năm 1969 (43.000 người) và năm 1970 (38.000 người).
Những năm đầu (1963-1965) và năm cuối (1974) số người ra hồi chánh hàng năm chỉ có chừng vài nghìn. Số người ra hồi chánh lên cao đến 15.000-43.000 mỗi năm trong khoảng thời gian chính phủ Việt Nam Cộng Hòa tiến hành chương trình Bình Định và Phát Triển từ 1968 đến 1972. Số người ra hồi chánh cao nhất là vào năm 1969 (43.000 người) và năm 1970 (38.000 người).
Cán
binh cộng sản ra hồi chánh phần lớn là cán bộ và bộ đội gốc gác trong
nam. Một số ít là cán binh tập kết nay quay trở lại miền nam. Cán binh
Bắc Việt xâm nhập thì có rất ít, tổng cộng chỉ chừng 4.000-5.000 người.
Ngoài ra còn có 3.500 phạm nhân và 11.500 tù binh thuộc thành phần tân
sinh hoạt được Ủy Ban Liên Bộ Chiêu Hồi, Nội Vụ, Quốc Phòng, và Tư Pháp,
tuyển chọn cho cải danh sang qui chế hồi chánh.
Cấp
bậc cao nhất của sĩ quan ra hồi chánh là thượng tá (Thượng tá Tám Hà).
Nhân viên dân sự cao cấp nhất ra hồi chánh là Trưởng Ty Y Tế tỉnh Pleiku
(Bác sĩ Đặng Tân). Trong số người hồi chánh, có nhà văn có chân trong
Hội Nhà văn Việt Nam (Xuân Vũ Bùi Quang Triết), có nhạc sĩ tác giả khúc
nhạc mở đầu của đài phát thanh giải phóng (Phan Thế), có tài tử điện ảnh
của đoàn làm phim Hà Nội (Cao Huynh), có nhân viên văn phòng Bí Thư
Thành ủy Sài Gòn-Gia Định (Tô Minh Trung).
Thượng Tá Tám Hà, thứ 2 từ trái về hồi chánh trong năm tổng tấn công Mậu Thân 1968, đầy cay đắng thất bại của việt cộng.
Thành quả chiêu hồi về mặt phục hoạt.
Tất
cả cán binh cộng sản ra hồi chánh, không những thuộc thành phần tự
nguyện mà kể cả thành phần cải danh, đều được chính quyền phục hồi sinh
hoạt bình thường, cho thủ đắc đầy đủ quyền công dân, và giúp đỡ hội nhập
trọn vẹn vào cộng đồng dân tộc.
Cán
binh cộng sản ra hồi chánh được đưa về trung tâm chiêu hồi. Tùy theo
chức vụ và cấp bậc trong hàng ngũ cộng sản, họ được tiếp nhận ở trung
tâm cấp tỉnh, cấp quân khu, hay cấp trung ương. Riêng cán binh Bắc Việt
xâm nhập, tất cả đều được đưa về trung tâm chiêu hồi trung ương ở Thị
Nghè.
Trong
những ngày đầu tại trung tâm tiếp nhận, người hồi chánh được tiếp xúc
với nhân viên an ninh Bộ Chiêu Hồi và nhân viên tình báo các cơ quan bạn
để khai báo về bản thân, về tổ chức và hoạt động của cơ quan cộng sản,
về đường giây nằm vùng, về nơi chôn dấu vũ khí v.v. Sau đó, người hồi
chánh được nhân viên cảnh sát làm thủ tục cấp thẻ căn cước, và tham gia
một khóa học chính trị cơ bản. Người hồi chánh còn được đưa đi tham quan
phố phường, chợ búa, bệnh viện, trường học, xưởng dệt kim, nhà máy cán
thép, trại cây ăn trái, để biết rõ thực trạng xã hội miền nam. Trước khi
rời trung tâm chiêu hồi, người hồi chánh được hỏi về nguyện vọng sau
khi hoàn hương, để được tùy nghi giúp đở. Thời gian ở trong trung tâm
tiếp nhận là 2 tháng. Người hồi chánh được nuôi ăn ngày 3 bữa và được
cấp phát 2 bộ quần áo. Khi rời trung tâm để về với gia đình, người hồi
chánh được cấp vé xe, vé tàu, và tiền hoàn hương.
Những
người có nguyện vọng học thêm nghề để kiếm sống sẽ được đưa đến các
trung tâm huấn nghệ cấp quân khu hoặc cấp trung ương. Họ được tự do lựa
chọn ngành nghề: nghề may, nghề mộc, lái xe và sửa máy xe, sửa điện nhà,
radio, tủ lạnh v.v. Tại các trung tâm huấn nghệ, người hồi chánh cũng
được nuôi ăn. Sau khi thành nghề, họ được giới thiệu kiếm việc làm.
Những
hồi chánh viên quê quán miền bắc không muốn ở các vùng thị tứ, những
hồi chánh viên không còn thân nhân, hoặc không muốn trở về làng cũ, thì
đuợc đưa đến định cư ở các làng Chiêu Hồi. Tại miền nam thuở bấy giờ có
khoảng 20 làng Chiêu Hồi. Mỗi gia đình được cấp 3 mẫu đất canh tác, nông
cụ và hạt giống, và lương ăn trong 6 tháng. Hầu hết các làng Chiêu Hồi
được cấp máy phát điện.
Nhà văn hồi chánh Xuân Vũ sau này trở thành nhà văn nổi tiếng của miền nam, Việt Nam.
Thành quả chiêu hồi về mặt hội nhập.
Một
số hồi chánh viên được tuyển dụng làm cán bộ võ trang tuyên truyền. Các
cán bộ này được tổ chức thành đại đội, trang bị phương tiện truyền
thanh và vũ khí nhẹ để thâm nhập vào các vùng xôi đậu làm công tác tuyên
vận. Trong mùa hè đỏ lửa 1972, một đại đội võ trang tuyên truyền bị
Việt cộng phục kích ở cầu Bồ Bản, Quảng Trị. Thay vì thúc thủ đầu hàng
hoặc trốn chạy qua cầu và sẽ bị bắn chết hết, họ đã gan dạ trụ lại chống
trả. Việt cộng bị bất ngờ và đã bỏ lại hiện trường 68 xác chết đồng
đội. Đại đội võ trang tuyên truyền này đã được Bộ Tư lệnh Quân đoàn I
tuyên dương và Bộ Chiêu Hồi tưởng thưởng.
Ngoài
những chức vụ đặc biệt dành riêng để tuyển dụng các hồi chánh viên cao
cấp như Tham Nghị đặc biệt (cấp Tổng Giám đốc) và Tham Nghị (cấp Giám
đốc), một số hồi chánh viên có năng lực và tinh thần hợp tác được tuyển
dụng vào các chức vụ chỉ huy thường chỉ dành cho các sĩ quan biệt phái
hay công chức chính ngạch cấp đốc sự hoặc tham sự như giám đốc nha,
chánh sự vụ sở, quản đốc trung tâm, chủ sự phòng. Những nguời này đã
thực sự quên đi dĩ vãng và dốc lòng phục vụ chính quyền Việt Nam Cộng
Hòa với niềm tin tưởng mãnh liệt vào chính sách Đại Đoàn Kết Dân Tộc
(3).
Một
số hồi chánh viên được tuyển dụng làm cán bộ võ trang tuyên truyền đã
được sung vào các Thuyết Trình đoàn của Bộ Chiêu Hồi để thường xuyên đến
các trường học, các xưởng máy, các tổ chức cộng đồng tôn giáo và xã
hội, để nói chuyện cho đồng bào nghe về thực trạng miền bắc xã hội chủ
nghĩa. Năm 1972, một đoàn thuyết trình gồm những người sinh trưởng trên
đất Thái đã được đưa qua Thái Lan để nói chuyện cho kiều bào sinh sống
tại vùng đông bắc Thái nghe về thực trạng xã hội miền nam. Hồi chánh
viên Mai Văn Sổ được đưa qua Paris sinh hoạt với Việt kiều và hai tháng
sau Mai Văn Bộ mất chức Tổng Đại Diện Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tại
Pháp. Hồi chánh viên Hồ Văn Bửu được đưa qua New Delhi nói chuyện về
thực chất Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình nhân dịp Bộ trưởng Việt
Cộng Nguyễn Thị Bình thăm viếng Ấn Độ. Hồi chánh viên Bùi Công Tương
được đưa qua Úc làm chứng trước tòa rằng nhà báo Alfred Burchett viết
lách gian dối, không khách quan, khi tường thuật thực trạng tại các vùng
giải phóng ở miền nam Việt Nam, trong một vụ kiện đòi bồi thường danh
dự giữa nhà báo ấy và một vị nghị sĩ Úc.
Trắc nghiệm thành quả.
Chiều
ngày 27-1-1973, Bộ Chiêu Hồi được lệnh của Phủ Tổng Thống tiếp nhận
ngay trong đêm 11.500 tù binh cải danh hồi chánh do quân đội chuyển giao
từ các trại tù binh Biên Hòa, Cần Thơ và Phú Quốc. Công việc phải hoàn
tất trước 8 giờ sáng ngày 28-1-1973 là thời điểm hiệp định Paris có hiệu
lực. Khả năng tiếp nhận của các trung tâm chiêu hồi trong toàn quốc là
5.400 người, nay phải tiếp nhận một lúc hơn gấp đôi số lượng, Bộ Chiêu
Hồi phải đương đầu với nhiều khó khăn về chỗ ngồi chỗ nằm, về nuôi ăn,
về vệ sinh, về trật tự. Tuy rằng mọi việc cũng đã được giải quyết ổn
thỏa, nhưng trong bối cảnh vừa mới đình chiến, vừa cận kề ngày Tết,
những tù binh cải danh này nếu không chuyển qua quy chế hồi chánh thì
giờ này đâu còn bị giữ lại trong các trung tâm chiêu hồi mà đã được trao
trả cho Việt cộng và trở về với gia đình. Đương nhiên là tinh thần họ
rất giao động, và viễn tượng an ninh tại các trung tâm tiếp nhận thật là
đen tối. Bộ Chiêu Hồi đã linh động chỉ lập danh sách theo địa chỉ cư
trú rồi cấp giấy hoàn hương và lộ phí cho tất cả 11.500 người này về nhà
ăn Tết 15 ngày, sau đó sẽ đến trình diện cơ quan chiêu hồi địa phương
để nhập trung tâm, làm thủ tục cấp thẻ căn cước, theo các lớp huấn
chính, huấn nghệ. Việc làm này của Bộ Chiêu Hồi vừa để giải quyết khó
khăn trước mắt, vừa để trắc nghiệm mức độ thành thật cải hối của các tù
binh cải danh. Bộ Chiêu Hồi ước lượng chừng 20% sẽ bỏ đi theo Việt cộng,
nhưng trong thực tế chỉ có 4,7% trong số họ đã bỏ đi không ra trình
diện mà thôi.
Sau
ngày 30-4-1975, tất cả tập thể hồi chánh viên mà Việt cộng thường gọi
là thành phần chiêu hồi chiêu hàng, nếu không chạy được ra nước ngoài,
đều bị đưa ra toà xét xử về tội phản bội cách mạng. Một số bị kết án tử
hình. Ngoài ra thì bị đưa vào giam giữ ở các trại tập trung, y hệt các
nhân viên quân sự và dân sự của chính thể Việt Nam Cộng Hòa. Giữa những
người tù chính trị trong các trại giam của Việt cộng không hề có sự phân
biệt thành phần chiêu hồi và ngụy. Nếu trong hàng ngũ những người tù
thuộc thành phần chiêu hồi có những phần tử xun xoe, bợ đỡ, lập công với
cách mạng, thì tỷ lệ những phần tử này còn thấp hơn tỷ lệ trong hàng
ngũ những người tù thuộc thành phần không phải chiêu hồi mà Việt cộng
gọi là thành phần ngụy. Đây lại thêm một biểu hiện về thành quả hội nhập
của các người hồi chánh vào cộng đồng dân tộc sinh sống dưới chính thể
Việt Nam Cộng Hòa.
Kết Luận.
Chương
trình Chiêu Hồi của Việt Nam Cộng Hòa là một chương trình thành công.
Chương trình Chiêu Hồi ngày đó đã bắc nhịp cầu thông cảm giữa những
người ở trong chính quyền chống cộng tha thiết với tiền đồ quốc gia dân
tộc, với những người ở trong hàng ngũ cộng sản nhưng ý thức sự lầm lạc
của mình, đã ngu muội chiến đấu cho chủ nghĩa cộng sản mà cứ tưởng là
phục vụ quyền lợi của quê hương, của dân tộc. Chương trình Chiêu Hồi
ngày đó mãi đến nay vẫn còn lưu chút dư hương ngọt ngào trong lòng những
người không may phải sống trở lại trong vòng kềm kẹp của chính thể
chuyên chính vô sản.
Minh Vũ Hồ Văn Châm
Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.
Links:
Chú Thích:
1. Các ngân khoản ứng trước do Quỹ Tạm Ứng Chiêu Hồi lập ra để ủy ngân cho các địa phương trước năm 1967 phần lớn chưa được thanh lý. Đầu năm 1972, Bộ Chiêu Hồi cho lập Ủy ban Liên Bộ Chiêu Hồi, Tài Chánh, Giám Sát Viện, Ngân Sách Ngoại Viện để thanh lý hồ sơ chi tiêu các quỹ ứng trước đó. Các địa phương không có hồ sơ thanh lý hợp lệ phải hoàn trả ngân khoản được ứng trước. Bộ Chiêu Hồi đã thu lại 57 triệu đồng Việt Nam cho Quỹ Tạm Ứng Chiêu Hồi, và chuyển hoàn tồn khoản của Quỹ Tạm Ứng Chiêu Hồi cho Quỹ Đối Giá Viện Trợ Mỹ.
1. Các ngân khoản ứng trước do Quỹ Tạm Ứng Chiêu Hồi lập ra để ủy ngân cho các địa phương trước năm 1967 phần lớn chưa được thanh lý. Đầu năm 1972, Bộ Chiêu Hồi cho lập Ủy ban Liên Bộ Chiêu Hồi, Tài Chánh, Giám Sát Viện, Ngân Sách Ngoại Viện để thanh lý hồ sơ chi tiêu các quỹ ứng trước đó. Các địa phương không có hồ sơ thanh lý hợp lệ phải hoàn trả ngân khoản được ứng trước. Bộ Chiêu Hồi đã thu lại 57 triệu đồng Việt Nam cho Quỹ Tạm Ứng Chiêu Hồi, và chuyển hoàn tồn khoản của Quỹ Tạm Ứng Chiêu Hồi cho Quỹ Đối Giá Viện Trợ Mỹ.
2.
Thể thức chi tiêu Xây Dựng Nông Thôn được đặt ra để giúp các địa phương
không bị ràng buộc với các thủ tục chi tiêu rườm rà của trung ương, nhờ
vậy, các địa phương có thể linh động giải quyết nhanh chóng các nhu cầu
cấp kỳ. Tuy nhiên, nếu trung ương có thái độ phủi tay (ủy ngân xong là
xem như hết trách nhiệm) hay chủ trương tiếp tay (ủy ngân bừa bãi quá
mức nhu cầu để chia chác) thì thể thức chi tiêu này cũng như việc sử
dụng thực phẩm phụng sự hòa bình và vật liệu xây dựng nông thôn cho
người hồi chánh không có sự theo dõi của trung ương, sẽ làm phát sinh
nhiều tệ đoan nhũng lạm. Cuối năm 1969, Bộ Chiêu Hồi cho áp dụng một mẩu
báo cáo hàng tháng đơn giản mà chính xác, các ty chỉ việc điền các số
liệu báo cáo vào các ô thích hợp, nhờ đó, Bộ Chiêu Hồi đã chặn đứng nạn
báo cáo ma, và phát hiện nhiều việc phi lý, tỷ như có ty đã nhận từ kho
Xây Dựng Nông Thôn một số dầu ăn để cung ứng cho người hồi chánh đang ở
tại trung tâm chiêu hồi, mà tính ra thì mỗi hồi chánh viên đã tiêu thụ
hàng tháng 1.500 lít dầu ăn.
3.
Tiếc rằng đầu năm 1974, Bộ Chiêu Hồi được giải thể để nhập vào Bộ Dân
Vận, và trước thái độ ngờ vực và rẻ rúng của các cấp lãnh đạo mới, họ đã
vô cùng thất vọng. Bị bãi chức, họ lang thang xó chợ đầu đường. Quản
Đốc Trung tâm Chiêu Hồi Trung Ương Thị Nghè, vốn là Đại úy đặc công Việt
cộng, vì quá bi phẫn, đã nhảy lầu tự sát, may mà không chết, chỉ bị gãy
xương. Cuối năm 1974, có sự thay đổi lãnh đạo Bộ Dân Vận Chiêu Hồi, họ
được gọi trở về nhiệm sở cũ.
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen