Wall Street Journal
(02-06-2015)
Tác giả: Andrew Browne
Người dịch: Trần Văn Minh
04-06-2015
Ở vào thế giành quyền kiểm soát “hồ”
của mình, Trung Quốc rút lại sự khoan dung
lâu dài dành các nước láng giềng
Đô đốc Trung Quốc, ông Tôn Kiến Quốc
nói chuyện với Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ash Carter tại Đối thoại Shangri-La ở
Singapore vào cuối tuần này. Đô đốc Tôn cho biết, Trung Quốc đã ‘kiềm chế hết
mức’ ở Biển Đông. Ảnh: AFP / Getty Images
SINGAPORE—Cách Trung Quốc xem các
tranh chấp chủ quyền đang sôi động ở Biển Đông, rằng sự nhẫn nại của họ đã đi
quá xa.
Các nước nhỏ hơn ở quanh vùng biển
gồm Việt Nam, Philippines và Malaysia đã thách thức sự kiên nhẫn của Bắc Kinh
bằng cách đưa ra các tuyên bố chủ quyền trên nhiều đảo nhỏ, công trình xây dựng
trên các đảo này và thăm dò năng lượng ở vùng biển xung quanh. Thật vậy, những
hành động này đi trước bất kỳ hành động nào của Trung Quốc. Nhưng sự khoan dung
cũng có giới hạn.
Cảm nghĩ về tính chính đáng này đã
dẫn Trung Quốc tới dự án xây dựng đảo trong quần đảo Trường Sa, mà hiện nay là
tâm điểm của một cuộc khủng hoảng đang gia tăng trong khu vực kinh tế năng động
nhất thế giới.
Và điều này đến từ một quan điểm
lịch sử xa xưa. Trung Quốc chỉ đơn thuần trả lại những gì họ gọi là “vùng biển
gần” của họ cho nhà nước mà họ tin rằng nhà nước này đã hiện hữu hàng ngàn năm
– như là một cái “hồ” của Trung Quốc – trước kỷ nguyên chủ nghĩa thực dân xâm
chiếm.
Ngày nay, sau khi Trung Quốc bỏ sau
lưng cuộc nội chiến, sự xâm lược của Nhật Bản và các xáo trộn khác, và sau bốn
thập niên tăng trưởng kinh tế ngoạn mục, cuối cùng họ đã đủ mạnh để đứng thẳng
lên dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Tập Cận Bình.
Còn xa với cách hành xử như một
quyền lực xét lại với tham vọng quân sự để thống trị, trong cách tính toán của
Trung Quốc để mở rộng các rạn san hô và đá thành các pháo đài tiềm năng là một
hành động cứu chuộc với lịch sử.
Một cách ngắn gọn, các hoạt động nạo
vét của Trung Quốc không phá vỡ sự cân bằng, Trung Quốc khôi phục lại nó.
Bên ngoài, quan điểm chung này giúp
giải thích tuyên bố bất thường của Đô đốc Tôn Kiến Quốc tại hội nghị an ninh
quan trọng ở Singapore vào cuối tuần trước.
Khi chính ông nói tới vấn đề nằm
trong tâm trí của tất cả mọi người tại Đối thoại Shangri-La – việc Trung Quốc
xây dựng 2.000 mẫu đất trên lãnh thổ giữa biển trong vòng 18 tháng qua (tương
đương với 1.500 sân bóng bầu dục) – Phó tham mưu trưởng quân đội Trung Quốc
tuyên bố rằng, nước ông đang thực sự kiềm chế.
Ông nói, “Trung Quốc đã kiềm chế hết
sức”.
Không đếm xỉa tới lời kêu gọi của
ông Ash Carter, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, nên ngừng công việc mở rộng, là đe dọa
ưu thế quân sự của Mỹ và đẩy qua hết một bên quốc gia Á châu này đến quốc gia
khác, đến nỗi các lãnh đạo quân đội và an ninh của họ than phiền rằng Trung
Quốc đang đe dọa hòa bình, Đô đốc Tôn khẳng định rằng các hoạt động xây dựng là
“hợp pháp, chính đáng và hợp lý”.
Đô đốc Tôn đã không tiếp tục giải
thích những gì Trung Quốc có thể sẽ làm nếu họ không tự kềm chế.
Tuy nhiên, câu hỏi này là gốc rễ của
sự lo lắng hiện nay đang chi phối châu Á. Nếu một công cuộc xây dựng thả cửa
với mức độ chưa từng thấy mà gọi là kiềm chế, thì sự không kiềm chế sẽ như thế
nào?
Bởi vì các tuyên bố chủ quyền biển
của Trung Quốc quá rộng lớn – gần như toàn bộ Biển Đông và tất cả các thực thể
biển – nỗi lo sợ trong vùng Đông Nam Á là Trung Quốc đang tạm thời đè nén sự
thôi thúc cho việc kiểm soát toàn bộ cái “hồ” của họ và các tuyến đường biển
trong đó.
Bằng cách thúc giục Việt Nam ngưng
các công trình cải tạo đảo của mình trong khu vực, ông Carter cho thấy rằng ông
hiểu rất rõ mối nguy hiểm khi mà sự kiên nhẫn của Trung Quốc có thể chấm dứt.
Nhiều nước trong khu vực tin rằng
chỉ là vấn đề thời gian trước khi Trung Quốc tuyên bố kiểm soát bầu trời bằng
cách thiết lập một khu vực phòng thủ không gian, giống như điều mà họ đã tuyên
bố trên biển Hoa Đông – một hành động mà Đô đốc Tôn không loại trừ. Một hành
động như vậy “sẽ phụ thuộc vào vấn đề nếu an ninh hàng hải của chúng tôi bị đe
dọa”, ông nói.
Trung Quốc đã khẳng định quyền điều
khiển tất cả các hoạt động đánh bắt cá trong khu vựcBiển Đông. Và họ xem toàn
bộ khu vực này là một phân khu hành chánh của đảo Hải Nam, một lệnh điều hành
của chính phủ [TQ] tiến xa về phía nam, tới tận Indonesia.
Thêm nữa, Trung Quốc lựa chọn những
khía cạnh của luật pháp quốc tế hỗ trợ cho trường hợp của họ và phớt lờ những
điều không hỗ trợ. Mặc dù họ ký Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển, nhưng họ
chưa bao giờ nêu ra yêu sách biển dựa theo luật đó.
Tháng trước, hải quân Trung Quốc đã
cố gắng xua đuổi một máy bay do thám của Mỹ mang theo một đội thu hình của CNN
tiếp cận đá Chữ Thập, một trong những công trình xây dựng lớn nhất. “Hãy đi
khỏi!” một nhân viên phát thanh của hải quân Trung Quốc la lớn.
Máy bay P-8 Poseidon đã bị cảnh báo
đang tiến tới một “khu vực báo động quân sự” – một dạng không phận không có cơ
sở pháp lý. Lời cảnh báo này chỉ ra rằng Trung Quốc hẳn có ý định sử dụng công
trình xây cất để tăng cường kiểm soát bầu trời trên Biển Đông và các tuyến
đường biển, tuyến đường chứa hơn một nửa thương mại thế giới.
Thựa ra, sự nhập nhằng là một chiến
thuật có chủ ý của Trung Quốc. Một đường chín đoạn xuất hiện trên bản đồ của
Trung Quốc xung quanh Biển Đông, cho thấy quyền sở hữu của Trung Quốc không bao
gồm bất kỳ tọa độ nào. Cũng như Trung Quốc chưa từng giải thích về cơ sở pháp
lý của bản đồ.
Dù vậy, không phải ai cũng tin rằng
Trung Quốc có ý định áp đặt các tuyên bố chủ quyền của họ tới cùng.
Viết trên báo Straits Times của
Singapore tuần này, ông Vương Canh Vũ (Wang Gungwu), một giáo sư tại Đại học
Quốc gia Singapore và là một học giả hàng đầu về triều đình Trung Quốc, biện
giải rằng Trung Quốc chưa bao giờ mong muốn trở thành một đế chế hàng hải. Các
chuyến hải hành 600 năm trước của thái giám Đô đốc Trịnh Hòa là một điều khác
thường.
Không giống như Anh và Mỹ, là những
nước xây dựng vị thế siêu cường thông qua sức mạnh hải quân, Trung Quốc có
truyền thống tìm kiếm quyền lực thông qua sức mạnh kinh tế và tiến bộ công
nghệ.
Ông Vương viết: “Vấn đề chính của
Trung Quốc là làm thế nào để thuyết phục các nước láng giềng rằng họ không có ý
định chuyển từ quả quyết tới áp chế”.
Trong lúc này, Mỹ và các đồng minh Á
châu chỉ còn phỏng đoán sự tự kiềm chế của Trung Quốc sẽ kéo dài bao lâu. Các
cuộc tranh luận tại Washington về việc liệu sự kiềm chế của Trung Quốc cần được
khuyến khích thông qua ngoại giao và kêu gọi tuân thủ các nguyên tắc pháp lý và
chuẩn mực quốc tế, hoặc áp đặt bằng vũ lực. Dù bằng cách nào đi nữa, sự kiềm
chế không thể xem như mặc định.
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen