Mặc Lâm, phóng sự từ Malaysia
2015-05-02
2015-05-02
Khách hàng ăn
tối tại một tiệm cà phê Việt Nam ở Malaysia.
RFA
Nếu người Việt hải ngoại tự hào với con
phố Bolsa nơi có Little Saigon mà họ gọi một cách thân thương là Sài Gòn nhỏ thì
khách du lịch từ Việt Nam sang Singapore có thể ghé quán Little Việt Nam nằm
trên đại lộ Guillemard gần với con lộ Geylang để thưởng thức các món thuần Việt,
hay xa hơn, tại Kuala Lumpur, một quán Little Việt Nam khác nằm trên đường Jalan
Alor sẽ làm người xa nhà ngạc nhiên vì ở thành phố mà món ăn do người Hoa làm
chủ nhưng một quán ăn nhỏ bé Việt Nam lại có thể đông đúc như vậy.
Một bài toán không lời giải
Singapore và Malaysia không những chỉ có
nhà hàng mang tên Little Việt Nam mà nó còn những thứ Việt Nam khác đang sinh
hoạt tại hai quốc gia này. Sự nhộn nhịp khi đêm xuống của một cộng đồng các cô
gái từ các nước trong đó nhiều nhất là Việt Nam sang bán dâm đang là một bài
toán không lời giải cho các tổ chức quan tâm về vấn đề buôn người trên khắp thế
giới.
Singapore cũng giống như Thái Lan, cho
phép thành lập các khu đèn đỏ hoạt động dưới sự kiểm soát trong một chừng mực
nào đó của chính phủ. Khu Keong Saik trước đây và Geylang hay Joo Chiat bây giờ
được vận hành bởi những hội kín của người Hoa. Giống như các hoạt động mãi dâm
bất hợp pháp, dù hợp pháp chăng đi nữa thì nguồn hàng mới vẫn cần tìm kiếm, dụ
dỗ có khi lừa bịp để cung cấp cho khách làng chơi. Việt Nam đã có sẵn đường giây
lâu đời của các má mì người Việt lẫn Hoa hoạt động mà hơn một lần báo chí Việt
Nam khui ra là xuất phát từ Trung Quốc.
Nhà em ngoài Bắc thì làm lúa làm rẫy, trồng mía trồng trà làm ruộng. Lần đầu tiên thì con bạn hồi đó đi làm công nhân nhưng hồi đó lương thấp thấy bạn đi về nhiều tiền nên ham. Nó nói cho số điện thoại bên đây rồi tự ra sân bay, vé thì nó đặt giúm cứ tự ra sân bay tự đi. Cũng sợ lắm nhưng kệ, đi tới đâu thì điện thoại dẫn tới đấy.
-Cô Lam
Những cô gái Việt sang Singapore phần lớn
đi một mình được sự hướng dẫn bằng điện thoại từ Geylang. Chấp nhận ra đi cô sẽ
được ứng trước một số tiền tương đương 1.000 đô la Mỹ và sau đó mỗi tháng cộng
với tiền lời 20% khiến cô khó mà trả hết số nợ ngày một tăng cao này. Ở
Singapore các cô còn phải cạnh tranh với các cô gái đến từ nhiều nước khác như
Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Sri Lanka ngay cả với Campuchia nữa nên thu nhập
không thể đủ để thanh toán các khoản chi tiêu trong đó có món nợ của các má mì
đàn ông lẫn đàn bà, đa số là người Tàu nói tiếng Việt.
Khác với Singapore, chỉ cần băng qua biên
giới thì thành phố Johor Bahru của Malaysia sẽ chào đón các cô gái Việt với
nhiều cơ hội thành công hơn.
Johor Bahru có không ít tụ điểm về đêm và
mặc dù là một quốc gia Hồi giáo trên 60% tín đồ, Malaysia tỏ ra khoan dung hơn
Indonesia và các quốc gia hồi giáo khác.
Điểm đặc biệt mà người ta có thể nhận ra
không cần bàn cãi đó là phụ nữ của quốc gia này không bán dâm trong tất cả các
khu vực ăn chơi. Phụ nữ Mã ra phố trong trang phục phương Tây lẫn trong những
khăn choàng của Hồi giáo. Những chiếc hijab choàng đầu sặc sỡ làm cho đất nước
này xinh xắn hơn so với những bộ trang phục màu đen lạnh lùng và khép
kín.
Bộ luật Sharia của Hồi giáo Malaysia không
bao giờ tha thứ cho việc mua bán dâm. Đây là tội ác và báng bổ thần thánh có thể
bị ném đá đến chết hay ít nhất cũng phạt roi cho tới tàn tật cả
đời.
Tiệm ăn Little
Vietnam ở Malaysia. RFA PHOTO.
Công việc mà người phụ nữ Malaysia cho là
đáng xấu hổ này lại là nguồn khai thác cho các cô gái Việt. Nếu so với Singapore
thì Malaysia là chốn thiên đàng cho nghề mãi dâm mặc dù lâu lâu cũng có một vụ
càn quét của cảnh sát Mã. Cách đây ít lâu vào đêm 19 tháng 12 năm 2014 quán The
Zone ở đường Ibrahim Sultan, thành phố Johor Bahru cảnh sát đã bắt giữ một số
gái Việt nhưng các cô lại xuất hiện vài ngày sau đó và ánh đèn của The Zone tiếp
tục nhấp nháy trở lại.
Từ Johor Bahru, 184 cây số về hướng Nam là
thành phố cổ kính Malacca. Nơi đây ban ngày du khách không thấy hình dạng nào
của sự ăn chơi nhưng khi màn đêm buông xuống thì những tụ điểm lên đèn và trong
những quán bar đó toàn những cô gái Việt Nam ngồi rót bia cho khách với một thứ
ngôn ngữ duy nhất là tiếng Hoa.
Khách làng chơi tại Malacca hầu hết du
lịch tour từ nhiều nước của cộng đồng nói tiếng Hoa như Đài Loan, Macau,
Hongkong, Singapore và dĩ nhiên nhiều nhất vẫn là Trung Quốc đại lục. Tất cả
những quốc gia nói tiếng Hoa ấy được các cô gái Việt gọi chung là người Tàu hay
tiếng Tàu và khi giao tiếp với họ chỉ cần học vài tiếng phổ thông là
đủ.
Chấp nhận hoàn cảnh
Giống như hầu hết các quán Bar nổi tiếng
khác của Malaysia, tại Malacca tiếp viên được chia 20 Ringgit (tiền Mã) khi khui
được 5 chai bia cho khách với giá bán 25 Ringgit một chai, tương đương với 7 đô
la Mỹ. Mỗi đêm nếu may mắn có nhiều khách tiền khui bia có thể lên tới 50 đô la
đó là chưa kể tiền bo khi ngồi với khách.
Tuy nhiên hiếm khi cô gái nào chịu ngồi
với khách mà không rủ rê họ để bán dâm. Nếu có nhan sắc và giỏi tiếng Tàu thì có
thể ngồi với khách nhưng thiếu hai yếu tố này thì con đường duy nhất kiếm tiền
là phải bán thân. Không ít người trong các cô gái ấy là công nhân xuất khẩu lao
động, họ đến từ khắp nơi trên đất nước Việt Nam chứ không riêng gì gái miền Tây
như định kiến của báo chí trong nước. Do việc làm không đủ họ bỏ trốn ra ngoài
làm chui và con đường mãi dâm đến với họ không phải là khó khăn dưới sự săn đuổi
của những cô gái giống như họ nhưng bây giờ đã trở thành mối lái do tuổi tác hay
bệnh tật.
Nói chung là theo hoàn cảnh nào phải chấp nhận. Gia đình khó khăn thì bên này phải chịu khó làm kiếm tiền giúp gia đình. Chồng cháu bị tai nạn ở chân không đi làm được cháu phải sang đây làm. Cháu ký hai năm nhưng hơn năm thì công ty không có việc nên lên đây làm chui. Làm có tiền rời mới tính sau này nhờ các anh này làm giấy tờ rồi về.
-Một Cô Gái VN ở Malaysia
Một cô gái kể lại hoàn cảnh khó khăn khi
đi lao động tại Malaysia, từ Ayer Hiltam cách Malacca 40 cây số cô
nói:
“Nói chung là theo hoàn cảnh nào phải chấp nhận. Gia đình khó
khăn thì bên này phải chịu khó làm kiếm tiền giúp gia đình. Chồng cháu bị tai
nạn ở chân không đi làm được cháu phải sang đây làm. Cháu ký hai năm nhưng hơn
năm thì công ty không có việc nên lên đây làm chui. Làm có tiền rời mới tính sau
này nhờ các anh này làm giấy tờ rồi về.”
Không phải ai cũng chịu đựng như cô Lam,
một cô gái khác gốc gác Thanh Hóa cho biết con đường mà cô theo từ khi sang
Malaysia 2 năm về trước:
“Nhà em ngoài Bắc thì làm lúa làm rẫy, trồng mía trồng trà
làm ruộng. Lần đầu tiên thì con bạn hồi đó đi làm công nhân nhưng hồi đó lương
thấp thấy bạn đi về nhiều tiền nên ham. Nó nói cho số điện thoại bên đây rồi tự
ra sân bay, vé thì nó đặt giúm cứ tự ra sân bay tự đi. Cũng sợ lắm nhưng kệ, đi
tới đâu thì điện thoại dẫn tới đấy. Thấy người ta nói chuyện giống như bên Việt
Nam xem phim mà không có phiên dịch, chẳng hiểu gì hết cứ lắc lắc không
thôi.”
Từ Malacca cách thủ đô Kuala Lumpur 145
cây số là ngôi tháp đôi nổi tiếng Petronas Twin Tower. Dọc bên hông ngôi tháp
đôi này là đường Jalan P. Ramlee nơi có hai tụ điểm cũng nổi tiếng không kém
ngôi tháp Petronas đó là câu lạc bộ Beach và Thai Club, hai quán bar có chiêu
đãi viên toàn người Việt Nam.
Beach nổi tiếng đến nỗi bất cứ xe taxi nào
tại Kuala Lumpur cũng đều phải biết. Dáng vẻ sang trọng chứa bên trong hàng trăm
cô gái Việt mỗi đêm đã làm cho Beach có tên tuổi so với các nơi ăn chơi về đêm
khác của Kuala Lumpur. 80% khách vào đây là người Tàu còn lại là Tây và hiếm lắm
mới có vài người đàn ông bản xứ. Những cô gái trẻ từ 18 tới 25 lượn lờ trong
quán và sẵn lòng chia sẻ tiếng cười của mình với khách mặc dù trước đó họ có bị
chủ nợ đòi hay một cú phone xin tiền từ nhà gọi sang báo tin người thân trong
gia đình mang trọng bệnh.
Beach Club ở
Malaysia. RFA PHOTO.
Các cô không hẳn là trẻ hết, trong đó cũng
có người mà tuổi tác đã làm cho khách phải kín đáo nhăn mặt. Trang là một cô gái
như thế mặc dù tuổi chưa quá 35 nhưng sự lo âu đã nằm trọn trên đuôi mắt. Nói
với chúng tôi trước chai bia sắp cạn Trang kể:
“Có bà chị kêu em qua nấu ăn cho đào, phụ nấu ăn cho nhà bả.
Qua nấu ăn thời gian thì kinh tế bả khó khăn bả nói thôi giờ nghĩ nấu ăn đi vì
đào nó ăn tự túc hết rồi, vậy thì thôi giờ em đi làm luôn đi. Ba tháng sau học
tiếng, ráng học. Nói chung còn thiếu bả 3.000 giờ ráng làm để trả.”
Sau một hồi chạy quanh đâu đó, Trang trở
lại bàn và kể nhiều hơn về gia đình cô tại Long An, trong đó động cơ thúc đẩy cô
sang Malaysia chính là chồng mình do đã liên tục sách nhiễu tình dục đối với
người vợ đã quá kiệt sức sau những giờ làm việc tất bật, Trang kể:
“Bây giờ nói chung em không biết may giày nhưng mà cách xếp
giày thì em biết hết rồi, giày Nike đó chuyên nghiệp về giày Nike. Cứ 6 giờ là
có mặt và ngày nào cũng tăng ca bắt buộc phải tăng ca tới 7 giờ sau 7 giờ ngày
em tăng ca thì nhà em gần nhà mấy chị hàng bông, trước khi làm Nike nhà em bán
hàng bông mà, sau giờ đó thì em chở ra chợ em sang rồi 7 giờ tới 8 giờ em về tới
nhà. Cơm nước giặt đồ quay qua quay lại tắm rửa con cái ngủ hết thì em lặt ớt.
Lặt ớt tới 11-12 giờ khuya ngủ được một miếng tới 3 giờ em dậy đi bán
rồi.
Nói chung là nó đòi
quan hệ. Thật sự thì quá mỏi mệt luôn ngày nào cũng như ngày nấy làm sao chịu
nỗi? Em mới nói một tuần em chỉ cho quan hệ một lần vợ chồng ai cũng vậy không
có ai quan hệ nhiều, phụ nữ mà.”
Đối diện xéo góc với Beach là Thai Club,
có lẽ do một người Thái làm chủ. Phong cách Thái lộ rõ khi bên hông của quán bar
này là một chiếc miếu thờ Phật bốn mặt mà trước khi vào quán các cô gái Việt ghé
vào thắp nhang thành kính cầu xin cho buôn may bán đắt. Sát với Thái Club là
quán bán thức ăn Việt Nam có tên Tiệm Cà Phê Việt Nam. Ngôi quán nhỏ nhắn có
nhân viên người Việt rất dễ thương trải lòng mọi chuyện xảy ra tại đây để khách
thấy được bức tranh tổng thể cuộc sống của hàng ngàn cô gái Việt đang bơi
lội trong chiếc ao nhỏ bé mang tên Kuala Lumpur để bán thân xứ
người.
Từ con đường Jalan P. Ramlee đến một con
đường nhỏ khác có tên Jalan Alor không bao xa các cô gái thường ghé một quán
Việt Nam ở đó để ăn uống, tán gẫu trước và sau khi làm việc tại Beach hay Thai
Club. Quán nhỏ, bán nhiều thức ăn Việt và khách chủ yếu là công nhân xuất khẩu
lao động hay những cánh bướm đêm của Việt Nam. Người ta có thể thưởng thức một
tô phở nóng đặc trưng Hà Nội hay bánh hỏi heo quay đặc sản của vùng đồng bằng
sông Cửu Long. Chủ quán có vẻ biết khai thác tâm lý người xa quê khi không quên
một món mà không người miền Nam nào lại không biết đó là bánh mì Việt
Nam.
Trước cửa quán là chiếc xe bánh mì đầy
thịt ba rọi, xíu mại, thịt nướng cùng rau chua khiến hình ảnh một Sài Gòn trong
lòng bùng dậy ấm áp xoa dịu chút gì đó trăn trở và chen lẫn hối hận của các cô
gái tha phương.
Một Miếu Phật trên
đường phố ở Malaysia. RFA PHOTO.
Họ như những cánh bướm đêm, sặc sỡ và lười
biếng từ ăn nói tới đi đứng, chuyện trò. Có lẽ họ quá mỏi mệt khi phải đối phó
với nhiều thứ bên cạnh việc hằng đêm phải làm chuyện mà không người đàn bà nào
muốn. Những khuôn mặt của nhiều vùng quê Việt Nam từ Cà Mau đến Thanh Hóa, Lạng
Sơn...tại đây họ không còn phân biệt vùng miền mà chính yếu sự phân loại ấy nằm
ở trong ruột những cuốn hộ chiếu mang giòng chữ Hộ chiếu Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Các con dấu ở phi trường hay cửa khẩu của Malaysia sẽ nói lên
người cầm nó trong tình trạng nào, hợp pháp hay bất hợp pháp trước pháp luật của
Malaysia.
Nghị định khung miễn thị thực Visa trong
khối ASEAN được ký từ năm 2006 cho phép thời gian lưu trú của công dân các nước
trong khối ASEAN không quá 14 ngày đối với Brunei và Myanmar, không quá 21 ngày
đối với Philippines, không quá 30 ngày đối với Campuchia, Indonesia, Lào,
Malaysia, Thái Lan Việt Nam và Singapore.
Ba mươi ngày nhập cảnh vào các nước Đông
nam á là khoảng thời gian mà ASEAN tính tới nhằm ngăn chặn tệ nạn lao động chui
qua con đường du lịch. Thời gian ít ỏi không cho phép người nước khác mua vé máy
bay trở về nhà rồi tiếp tục sang làm việc với một lần nhập cảnh mới. Tuy nhiên
sự tính toán này tỏ ra không hiệu quả đối với lao động xuất khẩu của Việt Nam và
lại càng không thể áp dụng với các cô gái hành nghề mãi dâm đang tràn ngập đất
nước Malaysia.
Cầm trên tay cuốn hộ chiếu chưa một lần
đóng dấu không ít các cô gái Việt Nam bây giờ mới biết sự quan trọng của những
trang giấy trắng tinh này. Từ Việt Nam có cô nhờ luôn công ty môi giới làm sẵn
hộ chiếu cho mình, khi lên máy bay cuốn hộ chiếu ấy do người đại diện công ty
cầm giữ, bước xuống phi trường về tới chỗ làm việc họ cũng không có cơ hội nhìn
thấy nó vì chủ nhân giữ lại để tránh việc họ trốn ra ngoài làm
chui.
Con đường của một cuốn hộ chiếu theo chân
công dân Việt còn lắm gian nan nữa nếu chủ nhân của nó có ý định trốn lại
Malaysia để làm việc bất kể tình trạng di dân bất hợp pháp của
mình.
Sự liều lĩnh ấy dù sao tồn tại được cũng
nhờ vào các mánh khóe cộng với sự tiếp tay của các nhân viên chính phủ của hai
nước cấp và chấp nhận hộ chiếu Việt Nam. Các cô gái hành nghề mãi dâm trên toàn
đất nước Malaysia có cùng một cách để ở lại cho dù tấm hộ chiếu của họ thuộc
loại nào. Có ba loại hộ chiếu cùng xuất hiện tại đây: Hộ chiếu chết, hộ chiếu
chốt và hộ chiếu trắng.
Hộ chiếu chết là hộ chiếu đã hết hạn từ
lâu nhưng chủ nhân của nó không buồn ngó ngàng gì tới cho đến khi có ý định trở
về Việt Nam thì tính sau. Hộ chiếu “chốt” là khi hết hạn người cầm nó quay về
Thái Lan, sau đó nhập cảnh lại vào Malaysia để có con dấu thị thực mới. Hộ hiếu
trắng là người cầm nó quay hẳn về Việt Nam làm một cuốn hộ chiếu mới để quay lại
Mã.
Cô gái đến từ Thanh Hóa tên Thuần cho biết
cách mà một người muốn vào lại Malaysia qua việc đi chốt, tức là đi đóng dấu tại
cửa khẩu Malaysia và Thái Lan:
“Đi chốt (hay chốp) là cứ một tháng đi một lần. Thí dụ như
mùng bốn tháng trước mùng bốn tháng này là một tháng nhưng phải đi trước khoảng
27-28 chứ không để tới mùng bốn. Hai bảy hai tám ra bến xe mua vé đi Thái. Từ
Malacca sang tới Thái Lan sáng hôm sau qua khỏi cửa khẩu của Mã xong rồi vô Thái
nhập cảnh trong Thái đi chốt là qua Thái xong nhập cảnh vô Mã Lai lại thì tốn ít
tiền chứ vể Việt Nam qua lại rất khó. Ba tháng mới về nhà về Việt Nam một lần.
Bên này đi chốt sang Thái thì ba lần phải về Việt Nam xong quay sang bằng hộ
chiếu mới. Về Việt Nam đổi passport mới xong lại quay sang đi chốt tiếp.”
Nếu hộ chiếu quá cũ thì đi chốt sẽ bị từ
chối và có thể vào tù. Có hai cách để tránh tình trạng đi chốt liên tục mỗi
tháng. Cách thứ nhất đóng dấu nhập cảnh giả, cách thứ hai quay về việt Nam làm
hộ chiếu mới hay hộ chiếu trắng.
Cách thứ nhất có rất nhiều người theo vì
ít tốn kém hơn nữa cảnh sát Mã có hỏi thì cũng không biết được con dấu giả hay
thật ngoại trừ nhân viên của sở di trú dưới tên tắt là ZELA.
Theo cô Thuận thì cô chọn cách thứ hai vì
chỉ với một số tiền vừa phải là có thể an tâm quay lại Malaysia mà không sợ pháp
luật gõ cửa:
“Mình không muốn bản cũ nên đổi cái mới. Ra Hà Nội đổi thì có
hai trăm ngàn nhưng mà lâu và lằng nhằng lắm. Môi giới thì nhanh cho tiền chúng
nó là xong. Làm đổi mới chỉ trong ngày lấy thì một triệu ba. Nếu ba ngày lấy thì
600 ngàn còn nửa tháng mới lấy thì 200 ngàn.”
Không có tiền như các cô gái sống về đêm,
công nhân xuất khẩu lao động mỗi khi muốn trở về Việt Nam thì cách duy nhất là
nhờ môi giới với đại sứ quán Việt Nam tại Malaysia, một công nhân người Phú Thọ
cho biết:
“Thì chúng cháu phải nhờ môi giới ở đây để đưa lên Đại sứ
quán người ta làm thù tục giấy tờ cho bọn cháu về. Có nghĩa là trả tiền người ta
lo cho mình về chắc cũng tầm 2 nghìn hay 2 nghìn mốt gì đó. Hai nghìn đó thì bọn
cháu phải làm việc trong 3 tháng.”
Vài ngày trước, hôm thứ ba ngày 21 tháng 4
năm 2015 một cuộc hội thảo mang tên Xây dựng chương trình hành động phòng chống
mua bán người giai đoạn 2016-2020 do Ban chỉ đạo Phòng chống tội phạm của Chính
phủ tổ chức tại TP.HCM cho biết mỗi năm có 5.000 phụ nữ sang Singapore và
Malaysia hành nghể mãi dâm. Con số này thật ra đã bớt xuống nếu so với thống kê
của Cơ quan di trú Malaysia cho biết có ít nhất 18 ngàn người hành nghề mãi dâm
trong đó gái Việt Nam là hơn 8 ngàn người.
Đầu năm nay một quán bar tại vùng Sitiawan
bị cơ quan ZELA ập vào bắt giữ hơn 40 cô gái Việt nhưng chỉ sáng hôm sau hầu hết
các cô đều được chủ nhân chuộc ra và diễn tiến này lập lại sau đó hai tháng đối
với hai câu lạc bộ Beach và Thai Club tại Kuala Lumpur.
Luật Malaysia quy định nếu bị phát hiện
nhập cảnh và ở quá thời hạn người cầm hộ chiếu sẽ bị giam giữ hai tháng sau đó
trục xuất về nơi xuất phát. Tuy nhiên ít có người bị giam hay trục xuất vì đa số
đã được lót tay để cho qua và tiếp tục ở lại hành nghề.
Chính phủ cũng không thể truy tố chủ nhân
các quán bar về tội buôn người cho dù chỉ cần bằng chứng họ cho mượn tiền và
buộc phải làm việc cho họ là đủ cấu thành tội phạm. Lý do là không một cô gái
Việt nào dám nói ra sự thật vì sợ trả thù và cũng sợ hết đường làm ăn. Hơn nữa
đối với các nạn nhân thì việc má mì cho mượn tiền xuất phát từ lòng tốt và
truyền thống người Việt không nên lấy oán trả ơn.
Những ký sinh sống bám vào mồ hôi của các
cô gái Việt dưới nhiều hình thức: cho thuê nhà, cho vay lấy lãi, môi giới hộ
chiếu, môi giới bán dâm...tất cả đều là dạng buôn người nhưng nếu tìm người
chứng thì không ai dám đứng ra vì hệ thống dày dặc của bang hội người
Hoa.
Đã từng có vụ giết người được cảnh sát cho
là bịt miệng nhân chứng xảy ra và hình ảnh cô gái Việt Nam nằm chết sóng xoài
trong một quán bar đã khiến hầu hết các cô gái Việt chết khiếp.
Mạng lưới mafia hay đường dây buôn người
tại Mã chưa bao giờ bị phát hiện mặc dù liên tục bị cảnh sát theo dõi. Giống như
hầu hết các tổ chức buôn người trên thế giới, những đồng tiền hối lộ luôn là
đồng tiền khôn và sự thật hiển nhiên không một quốc gia Đông nam á nào lại từ
chối việc được hối lộ.
Nhưng có lẽ sức mạnh đồng tiền mới chính
là lý do khiến các cô im lặng. Thu nhập một đêm tại Beach hay Thai Club có thể
từ 1 tới 2 trăm đô la Mỹ đã vây hãm thân thể họ trong vòng tròn son phấn. Cho
tới khi son phấn phai nhạt thì con đường trở thành má mì dẫn dắt các cô gái khác
lại tiếp tục làm cho vòng tròn sinh sản của những cánh bướm đêm sang một chu kỳ
khác.
Bốn mươi năm đã qua kể từ ngày Văn Cao sáng tác bài Mùa Xuân đầu tiên,
người Việt những tưởng cái mùa xuân đáng ao ước ấy sẽ vĩnh viễn trở về trên đất
nước Việt Nam. Có đâu 40 năm đã qua mà mùa xuân chỉ xuất hiện về đêm, qua những
cánh bướm tả tơi nơi thành phố xa lạ và không hề được thông cảm cho nhịp đập của
những đôi cánh ấy.
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen