Chân Dung Tỵ Nạn
Phùng Mai - Bức tranh "Chân Dung Tỵ Nan" là bức tranh sơn dầu, dài hơn
3m cao 1m do họa sĩ Trần Thúc Lân từ Paris vẽ trong suốt 2 năm trời đã
hoàn tất vào đúng tháng 4 năm nay để kỷ niệm 40 năm Việt Nam đắm chìm
trong gông cùm cộng sản. Lộ trình bức tranh này bắt đầu được chính họa
sĩ kể lại trong một bài hồi ký dưới đây, chúng tôi nhận thấy đây là một
tác phẩm rất công phu nên giới thiệu đến quý bạn đọc. Bức tranh sơn dầu
này sẽ được triển lãm ở Kennedy Center vào tháng 6, sau đó lưu trữ ở San
Jose Viet Museum.
*
Cánh Hải Âu
Hồi Ký – Trần Thúc Lân
Hồi Ký – Trần Thúc Lân
Khoảng vài tuần trước ngày Quốc Hận thứ 38, (Friday, May 17, 2013) tôi
nhận được thư của anh Lê Minh bên Úc. Anh Lê Minh một lần nữa lại ủng hộ
Quỹ Tù Nhân Lương Tâm bằng cách đặt tranh tôi vẽ. Tôi thật cảm kích với
hảo tâm của anh ấy vì xung quỹ với tiền công làm việc cực nhọc ở cái
tuổi mà thường tình người ta chỉ mong sớm được về hưu an nghỉ. Nhưng lần
này không như thường lệ, anh không đặt chân dung cho một người hùng
Chiến Sĩ Tự Do nào, mà lại đặt chân dung của ‘chúng ta’, của Thuyền
Nhân!! Lẽ dĩ nhiên tôi rất hân hạnh được nhận vẽ, nhưng tôi không khỏi
nôn nao bồi hồi, phần vì hăng hái trước một dự án đối với tôi ‘lớn lao’,
phần thì lại lo lắng trước sự phức tạp của chủ đề khi sức tôi mỗi ngày
một yếu…
Thế là kế tiếp những đêm mất ngủ băn khoăn suy nghĩ,
những ngày tìm tòi tài liệu hình ảnh… Tôi tự hứa sẽ không mang hình ảnh
đến từ trong ký ức và kinh nghiệm của bản thân vì không muốn hạn chế bức
tranh với những kỷ niệm riêng tư của tôi. Phần thì phải nói, gợi lại
những hình ảnh hay nói đúng hơn những ám ảnh đó quá hãi hùng, quá đau
đớn cho tôi… Tôi ước muốn vẽ cho mọi Thuyền Nhân chứ không chỉ vẽ về
cuộc vượt biên của riêng tôi. Phải chăng đó chỉ là một dụng cớ để tránh
nhớ lại những gì tôi đã tự hứa khóa chặt trong tâm não?... Tôi chú tâm
tìm đọc trên mạng thật nhiều chuyện thuật lại hành trình khốn khổ của
biết bao Thuyền Nhân… Lẽ dĩ nhiên, tôi không còn cứng rắn đủ như xưa kia
để cầm lại nước mắt, và tự nhủ, Quốc Hận năm nay, không những mình đã
tưởng niệm mà lại còn có cảm tưởng như đã để tang thật kỹ thật nhiều…
Nội dung của bức tranh từ từ hiện lên trong đầu tôi... Cả lộ trình của
biết bao nhiêu người thì làm sao vẽ trong một bức được… Vì thế phải
nhiều bức ráp lại với nhau như để biểu tượng những đoạn trường phải trải
qua trên lộ trình vượt biên, hay để gợi lên những mảnh đời tan nát,
chia lìa cũng như những cuộc hội ngộ, đoàn tụ sau bao tuyệt vọng, những
câu chuyện riêng đã in hằn trong tâm ức chung của người Việt tỵ nạn… Và
để ráp những bức đủ cỡ đó lại với nhau, tôi cần tìm một yếu tố làm cái
‘fil conducteur’, một dây nối tượng hình để gắn liền các bức tranh lại
với nhau… Và tôi tìm được nó khi hồi tưởng lại câu chuyện sau đây…
Mùa Thu năm 1981, lúc ấy tôi mới sang tỵ nạn tại Paris chưa được 2 năm.
Tôi đi chạy hầu bàn ở nhà hàng ĐV ở quận 5. Một chiều tối, một cặp vợ
chồng Tây đã đứng tuổi, rất sang trọng bước chân vào quán. Nghe họ nói
chuyện với nhau tôi cứ tưởng họ người Gia-nã-đại. Tôi mời chào và giải
nghĩa thực đơn bằng tiếng Anh, và người đàn ông lớn tuổi hỏi tôi: 'Anh
không nói giọng Mỹ như nhiều người Việt tôi từng gặp! Sao lạ thế?'. Tôi
cười xuề xòa: 'Dạ thưa ông, không có giọng Mỹ, nhưng chắc chắn là có
giọng Việt Nam chính cống! Giọng của ông thì tôi đoan chắc là tiếng Anh
của Nữ Hoàng (Queen’s english), nhưng bà nhà có phải là người
Gia-nã-đại? ' Ông ta tươi cười: 'Anh chỉ đúng một nửa. Tôi là người Anh,
vợ tôi đây người Bỉ. Tên tôi là Peter Townsend, tôi vừa hoàn tất một
quyển sách về một hành trình của Thuyền Nhân, nên tôi đã gặp và phỏng
vấn nhiều người Việt trong các trại tỵ nạn ở mọi nơi…'
Vì bàng
hoàng, tôi hấp tấp hỏi ông một cách vụng về và vô duyên: 'Thế thì ông có
quen với Cha Hugo không?', cứ như là hễ một người Anh nào mà quan tâm
đến Thuyền Nhân đều phải biết linh mục này mà chính tôi lúc đó cũng chưa
gặp mặt và cũng chẳng biết tên họ của linh mục này là gì. Người ta vốn
nói ‘Thánh nhân đãi kẻ khù khờ’, thì trước câu hỏi ngu ngơ của tôi ông
Townsend trố mắt, ngạc nhiên đến ngớ ra: 'Làm thế nào anh biết cả con
trai tôi à?'. Đến phiên tôi giật mình và chống chế vội vã: 'Trời ơi! Ông
là bố của… Chả là con gái tôi đang đi học ở Luân-Đôn, nó thuộc về giáo
xứ của Cha Hugo, và đã được Cha dẫn đến thăm trại tạm cư của các Thuyền
Nhân, gần giáo xứ, ngay giữa lòng Luân-Đôn!...'. Ông Townsend gật gù và
thoải mái hơn, nên đùa: 'Trong một khoảng khắc, tôi cứ tưởng là người
Việt nào cũng thần giao cách cảm, đọc được trong đầu của người đối diện
chứ!'…
Sau bữa ăn, ông ta chìa cho tôi một tấm thiệp có tên tuổi
và địa chỉ của ông và nói một cách rất chân tình: 'Khi nào anh có rảnh,
gọi điện thoại số này cho tôi, rồi lên tôi dùng trà, tôi có một vài
chuyện muốn hỏi anh để tìm hiểu thêm về Thuyền Nhân Việt Nam…'. Tôi hân
hạnh quá, được gặp rồi lại được mời đến nhà thân phụ của một linh mục
Anh mà con gái tôi hết lời khen ngợi… Ngoài ra tôi không biết gì hơn về
ông Peter Townsend cả, ngoài quyển sách ông vừa đề cập đến!
Thế
rồi một ngày tôi lấy hết can đảm gọi điện thoại và may mắn được ông
Townsend nhận ra và hẹn đến nhà ông. Tôi có cố ăn mặc chỉnh tề mà càng
đến gần nhà ông lại càng cảm thấy mình như anh ngố mới ra tỉnh. Ông ở
một căn lầu trong một biệt thự dưới chân tháp Eiffel lộng lẫy và khổng
lồ. Tất cả trong nhà ông đều sang trọng, quý phái làm sao… Tôi tự hỏi,
tại sao một người như ông ta, đáng tuổi cha, chú tôi lại muốn hỏi chuyện
với một người tỵ nạn tầm thường như tôi? Chắc cũng nhờ Cha Hugo, tôi
nghĩ… Rồi trước lời chào đón vô cùng nồng nhiệt và bình dị, tôi bớt hết
hồi hộp lo lắng…
Ông Townsend làm trà và mang rót cho tôi, lần
đầu tiên tôi thấy sữa đổ vào tách trà. Rồi ông hỏi han về cuộc vượt biên
của tôi. Tôi kể lại cho ông, đến những lúc tôi xúc động, cái tách trà
cũng run lên lách cách trong tay tôi. Dù nước mắt tôi lưng tròng, tôi
cũng thấy được lòng cảm thông trong ánh mắt long lanh của ông. Ông kể đã
đi thăm rất nhiều trại tỵ nạn từ Mã-Lai đến Hồng-Kông, từ Thái-Lan sang
Phi-Luật-Tân. Nghe kể bao nhiêu chuyện qua lời thông dịch, không làm
sao trung thực hoàn toàn được nhưng cũng đủ cho ông thấu hiểu hoàn cành
hãi hùng của bao mạng người nhỏ bé giữa đại dương… "Chuyện người nào tôi
biết đến cũng thương tâm cả… Làm sao kể lại hết tất cả mọi chuyện… Cuối
cùng tôi phải chọn lựa kể lại một chuyện mà tôi cảm thấy là ‘kinh
hoàng’ (terrifying) nhất và tôi theo dõi câu chuyện đó cho đến cùng. Đó
là câu chuyện của một cô bé gái đi vượt biên cùng người anh/em (brother)
trên một chiếc thuyền cọc cạch, không thể nào tồn tại giữa sóng gió
biển cả. Trên tàu nhiều người đã đuối sức chết vì đói khát, bệnh hoạn vì
lênh đênh quá lâu, cuối cùng tàu tạt vào một bãi san hô… Hai anh em
cùng vài người sống sót tập bắt chim hải âu, phơi khô để ăn… cho đến
ngày chỉ còn lại có cô bé gái, một mình giữa bao xác chết, chơ vơ trên
một bãi san hô mỏng manh giữa trời nước… May mắn sao, vài ngày sau đó
một tàu hàng hải đã cứu vớt. Tôi muốn tìm hiểu thêm về nội tâm của cô bé
cũng như sự tự tồn của một con người trong một thảm cảnh như vậy. Tôi
chỉ tiếc là khía cạnh tâm lý tôi không tường thuật được đầy đủ vì ngôn
ngữ và tuổi đời của cô bé không cho phép diễn tả hết được. Tôi đã bao
lần suýt chết trong Thế Chiến thứ 2, nhưng tôi tự hỏi nếu tôi ở trong
trường hợp cô bé gái ấy, liệu tôi có còn đủ sáng suốt để kể lại không?
Tôi muốn thuật lại qua quyển sách này một chuyện thật, để cho thế giới
của tôi (my world) hiểu biết hơn về thảm cảnh của Thuyền Nhân Việt Nam,
hầu cưu mang họ… Anh đừng hiểu nhầm tôi, không phải là sự tội nghiệp đã
thúc đẩy tôi viết… họ khốn khó thật đấy, nhưng họ rất kiêu hãnh, cái
phẩm cách của những người đã đi qua địa ngục và sống còn. Qua những ngày
tháng đi tìm hiểu về họ, tôi thấy tôi cảm phục họ, họ thu hút đầu óc
(fascinate) tôi trên rất nhiều khía cạnh mà tôi mong anh có thể giúp tôi
hiểu rõ hơn."
Tôi chỉ tạc ghi trong lòng từng lời ông Townsend
nói, hình như tôi không còn nhớ những gì tôi đáp lại ông, như thể những
câu trả lời ấy chẳng có ký-lô nào… Tôi chỉ nhớ là lúc đó tôi như mở cờ
trong bụng là có những người ngoại quốc suy nghĩ như ông ta. Đây là
những điều chính ông đã bày tỏ hôm đó:
Grapevine/Truyền miệng:
"Người Anh-quốc chúng tôi gọi hiện tượng này là ‘grapevine’, tin truyền
miệng. Trong trường hợp của cô bé gái trong sách của tôi thì cái guồng
máy ‘truyền miệng’ của cộng đồng tỵ nạn Việt Nam thật là kỳ diệu, phi
thường! Tôi theo dõi trường hợp cá nhân này và tôi phải nể phục, không
thiếu phần bàng hoàng, băn khoăn tự hỏi: Họ làm cách nào hay vậy? Một cô
bé gái, một thân một mình đến trại ở một nơi xa lạ, không có một
phương tiện truyền thông, truyền hình, giấy tờ hành chánh, hay bất cứ
một hệ thống liên lạc tân tiến nào… thế mà chỉ qua người này nhắn đến
tai người nọ mà tìm lại được cha mẹ (đi trong chuyến tàu khác, trôi dạt
đến một nước khác) và cuối cùng gia đình được đoàn tụ và định cư ở Úc.
Không chỉ riêng tôi, trong UNHCR (Cao ủy Tỵ Nạn LHQ) ai cũng đã một lần
ngạc nhiên khi thấy cách liên lạc tìm kiếm thân nhân không cần sổ sách,
giấy tờ (records) gì cả nhưng rất hữu hiệu, xuyên qua tất cả biên giới
toàn cầu!?!"
Chiến tranh, Hòa bình và Tự do: "Tôi đã từng chiến
đấu để bảo vệ đất nước tôi. Và tôi đã viết sách tường thuật về mặt trận
‘Battle of Britain’ của không quân Vương Quốc Anh (RAF) với không quân
Đức Quốc Xã (Luftwaffe). Những gương can đảm tôi đã chứng kiến trong
thời chiến, nhưng tôi phải nể sự can đảm của người Việt trong cuộc di
dân có thể gọi là một biến cố lịch sử, nhất là khi chiến tranh đã chính
thức chấm dứt! Cái gì thúc đẩy họ sẵn sàng bỏ đất nước, liều chết để ra
đi? Họ chạy trốn Cộng sản, nhưng khi hỏi thì họ đều nói họ đi tìm Tự do!
Tôi có cảm tưởng như họ hãy còn sợ là thế giới bên ngoài chưa lường
được đến mực nào ‘Cộng sản là đối tượng của Tự do’. Cái ý thức của họ về
chữ Tự do đó mới thật là chính đáng. Khi tôi nghĩ, nước tôi đã đẻ ra
cái phong trào Hippy, đưa đến phản chiến, vô tình đã đẩy đưa số phận dân
miền Nam Việt Nam vào đường cùng. Cái lũ hippies thời đó chúng xuống
đường đòi Tự do, chúng có hiểu Tự do là gì đâu, cái tự do của một lũ lớn
lên trong thời bình, chưa biết hy sinh một ngày cho đất nước, chưa biết
chiến tranh nhưng đòi hòa bình, sống với đầy đủ các quyền công dân
nhưng đòi tự do, cái tự do để yêu đương, để hút sách, để đồi trụy, để
hèn nhát, cái loại tự do rẻ tiền, ích kỷ, vô trách nhiệm đó có ngờ đâu
đã mang lại sự mất mát của chữ Tự do cao quý của bao nhiêu người ở bên
kia trái đất! Tôi muốn gửi bọn chúng đi nghỉ hè bên kia Màn Sắt để học
lại định nghĩa của chữ Tự do. Anh biết không, có một Thuyền Nhân nói vói
tôi mà tôi nhớ mãi: ‘Khi nằm trên tàu trôi dạt, ai không mơ được bay
lượn như cánh hải âu… Ao ước Tự do của chúng tôi đấy!’. Theo tôi, nếu
cánh bồ câu tượng trưng cho hòa bình, thì hình ảnh đẹp nhất của Tự Do,
phải là cánh hải âu ! Lúc đầu tôi muốn đặt tên quyển sách là The White
Seagull (Con Hải Âu Trắng) nhưng sau với nhà xuất bản tôi phải đổi lại
thành The Girl In The White Ship (Bé Gái Trên Chiếc Thuyền Trắng), để
không nhầm với một tên sách khác đã ấn bản."
Hơn hai mươi năm sau
buổi chiều đó, giờ đây tôi có dịp cám ơn ông Townsend một lần nữa, lần
này qua những dòng chữ này. Ông đã nhắc nhở cho tôi hình ảnh Cánh Hải
Âu trong bức tranh tôi đang phác họa. Ông qua đời đã trên 15 năm rồi, và
tôi cũng đã có dịp được hiểu biết tên tuổi lẫy lừng của ông, một anh
hùng của Vương Quốc Anh trong Đệ Nhị Thế Chiến, người yêu oan trái của
Công Chúa Margaret… Nhưng trong tôi, tôi sẽ giữ mãi hình ảnh của ông
chiều hôm đó, một người quý phái nhưng bình dị, cao cả nhưng khiêm
nhường, từng trải nhưng luôn băn khoăn, lạnh lùng kín đáo nhưng đầy tình
cảm… và ông đã quan tâm đến Thuyền Nhân Việt Nam! Cám ơn ông.
Hồi Ký – Trần Thúc Lân
Phùng Maidanlambaovn.blogspot.com
http://danlambaovn.blogspot.com/2015/…/chan-dung-ty-nan.html
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen