Nguyễn Xuân Vĩnh Gửi tới BBC từ Frankfurt, Đức
2 tháng 3 2015
TQ đã tiến hành xây đảo nhân tạo tại nhiều điểm thuộc Quần đảo
Trường Sa đang có tranh chấp
Từ vài năm nay giới quan sát về chính trị và quân sự ghi nhận là
Trung Quốc tăng cường những nỗ lực để củng cố chủ quyền tại quần đảo Trường
Sa.
Việc Trung Quốc xây dựng đồn quan sát
cùng với bãi đáp trực thăng trên đảo Gạc Ma (Johnson South Reef) đã được chú ý
và theo dõi từ năm 2012. Ngoài đảo Gạc Ma, hoạt động xây dựng còn có trên những
đảo Việt Nam gọi là Đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef), Đá Lạc (Gaven Reefs) và Đá
Tư Nghiã (Hughes Reef).
Nhưng đầu năm 2015, hình chụp từ vệ tinh đã phát hiện ra một sự phát triển
vô cùng nhanh chóng trong việc kiến thiết đảo nhân tạo trên những vùng
này.
Ráo riết xây dựng
Những hình ảnh vệ tinh được công ty thông tin quân sự IHS Jane’s phân tích
cho thấy là trên Đá Tư Nghiã, cái cấu trúc được xây trên mõm đá lú ra khỏi mặt
nước đã tăng từ 380 mét vuông trong năm 2004 lên thành một đảo nhân tạo với diện
tích là 75.000 mét vuông, một diện tích bằng khoảng 14 sân đá banh.
Sự phát triển còn rõ rệt hơn nữa trên Đá
Lạc. Ở đây hình vệ tinh chụp vào cuối tháng Ba 2014 cho thấy một cái nền nhỏ
trên bãi san hô, nhưng đến tháng Tám một đảo nhân tạo lớn đã thành hình kế bên
đó, và cuối tháng Giêng 2015 một bãi đáp trực thăng đã được xây kế bên đảo nhân
tạo đó cũng như những cái cầu nối cả ba cấu trúc với nhau.
Theo IHS Jane’s thì đảo nhân tạo lớn nhanh nhất là Đá Chữ Thập. Từ tháng
Tám đến tháng Mười Một 2014, đảo này đã được bồi đắp thành một mảnh đất dài
khoảng 3.000 mét và rộng khoảng 200 mét, đủ để xây một sân bay.
Các nước trong vùng, đặc biệt là Phi Luật Tân đã lên tiếng phản đối. Chính
phủ Phi Luật Tân đã đệ đơn kiện đến Tòa án Quốc tế về luật biển của Liên Hiệp
Quốc (International Tribunal for the Law of the See, ITLOS).
Hoa Kỳ cũng đã lên tiếng yêu cầu Trung
Quốc dừng những hành động gây sự bất ổn này trong vùng, nhưng đến nay Trung Quốc
không phản ứng.
Còn chính phủ Việt Nam thì vẫn im lặng.
Các quốc gia khác có sở hữu đảo trong
vùng tuy cũng có những hoạt động kiến thiết, nhưng theo Thứ trưởng Ngoại giao
Hoa Kỳ Daniel Russel thì việc xây đảo nhân tạo của Trung Quốc vượt xa tất cả
những gì các nước này đã thực hiện từ xưa đến nay.
Sự phản đối có lẽ cũng vô ích vì kiến
thiết ở bốn đảo nhân tạo tại vùng Trường Sa dường như thuộc vào một chương trình
quy mô được bắt đầu sau khi ông Tập Cận Bình lên nắm quyền ở Trung Quốc năm
2012.
Theo báo Wall Street Journal thì việc xây dựng trên hai đảo Đá Chữ Thập và
Đá Lạc đã được bắt đầu trong năm 2014, bất chấp những phản đối của các nước láng
giềng, và song song với những lời tuyên bố có tính cách ôn hoà của chính phủ
Trung Quốc.
Mục tiêu quân sự?
Theo các nhà phân tích quân sự thì cấu trúc của đảo nhân tạo trên Đá Lạc
rất giống cấu trúc trên Đá Tư Nghiã, cho nên có thể cấu trúc trên Đá Tư Nghiã là
mẫu cho những đảo nhân tạo khác sẽ được xây dựng hàng loạt.
Mục tiêu của Trung Quốc có thể là xây
dựng một chuỗi những căn cứ trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa để bắt buộc
các quốc gia khác từ bỏ những đòi hỏi chủ quyền trong vùng này.
Các đảo nhân tạo đều có đặc tính quân sự
rõ rệt vì có trang bị radar và ổ súng phòng không. Các đảo này có thể được dùng
để kiểm soát mặt biển và không phận của toàn vùng cũng như làm căn cứ hậu cần
cho tàu hải quân để đi tuần sâu hơn về miền nam biển Đông.
Đặc biệt là Đá Chữ Thập cũng sẽ có một hải cảng vừa cho thuyền vận tải và
chiến hạm lớn sử dụng.
Sân bay trên Đá Chữ Thập có thể được
dùng để yểm trợ cho hoạt động của chiếc hàng không mẫu hạm Liêu Ninh trên biển
Đông.
Quần đảo Trường Sa cách đảo Hải Nam hơn
1.100 km, quá xa để các khu trục cơ từ đất liền có thể yểm trợ hữu hiệu vì không
quân Trung Quốc chưa có kỹ thuật tiếp xăng trong lúc bay như không quân của Hoa
Kỳ hoặc các nước Âu Châu. Sân bay này có thể giúp Trung Quốc khắc phục nhược
điểm đó.
Máy bay trinh sát hoặc chiến đấu đóng tại đây có thể tiến xa xuống miền
nam. Và tất nhiên là các đồn này đều có thể được dùng để chứa quân và làm bàn
đạp để tiến chiếm các đảo khác.
Với những đảo này, Trung Quốc nhấn mạnh
những đòi hỏi chủ quyền trên Biển Đông. Một số nhà phân tích Hoa Kỳ cho rằng
Trung Quốc có thể dùng những đảo này để thiết lập một Vùng Nhận diện Phòng không
(Air Defense Identification Zone) trên biển Đông.
Mối đe dọa cho Việt Nam
Nhìn từ khía cạnh của Việt Nam, những
hoạt động lập đảo của Trung Quốc là một điều đáng lo ngại.
Cái đồn trên Đá Gạc Ma nằm ở phía nam
của Đảo Sinh Tồn (Sin Cowe Island), cách đảo này khoảng 30 km. Đồn Đá Lạc nằm
cách Đảo Sinh Tồn khoảng 41 km về hướng tây bắc. Căn cứ và sân bay trên Đá Chữ
Thập nằm khoảng 150 km về hướng tây nam đảo Sinh Tồn.
Đảo Sinh Tồn là một trong ba đảo lớn
nhất của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa và như thế lại nằm ở giữa ba căn cứ
quân sự của Trung Quốc. Đá Chữ Thập cũng nằm cách Đảo Trường Sa, đảo lớn nhất
của Việt Nam tại đây, khoảng 160 km về hướng đông bắc.
Với sân bay trên Đá Chữ Thập và các đồn
trên các đảo khác, Trung Quốc trong trường hợp xung đột có thể cắt đứt đường
tiếp tế cho đảo Sinh Tồn một cách dễ dàng và có thể uy hiếp đảo Trường Sa.
Và có thể nói là tất cả các đảo của Việt
Nam phiá bắc của đảo Sinh Tồn, trong đó có đảo Song Tử Tây (Southwest Cay), đảo
lớn thứ nhì của Việt Nam, và đảo Nam Yết (Namyit Island), đảo lớn thứ năm, đều
bị đe dọa qua những đảo nhân tạo của Trung Quốc.
Trong Thế chiến thứ hai, quân đội Hoa Kỳ
đã áp dụng một chiến lược được gọi là "island hopping“, chiến lược nhảy từ đảo
này sang đảo kia, để chiến thắng quân đội Nhật.
Các cánh quân Mỹ đã đánh chiếm những
vùng đất liền và đảo của Nhật có vị trí chiến lược quan trọng, nằm gần những
tuyến đường tiếp tế, nhưng chỉ có lực lượng phòng thủ nhỏ, thay vì đánh vào
những căn cứ có lực lượng phòng thủ mạnh.
Quân đội Mỹ đã tránh thiệt hại lớn nhưng
đã đưa Nhật vào thế bị động và khó khăn vì những đường dây tiếp tế bị cắt đứt.
Những căn cứ phải thất thủ vì thiếu đạn dược và thực phẩm.
Những hoạt động xây đảo nhân tạo của Trung Quốc chung quanh các đảo của
Việt Nam hiện hơi giống chiến lược nhẩy đảo đó.
Với một cái nhìn khách quan và theo logic thì Việt Nam bây giờ phải có một
thay đổi cấp bách trong chính sách ngoại giao và quốc phòng.
Nhưng trong hậu trường chính trị Việt
Nam, không ai biết được có những động lực gì thúc đẩy giới cầm quyền trong các
chính sách với Trung Quốc.
Liệu người dân Việt Nam lại phải chuẩn
bị tinh thần để chấp nhận hy sinh quân sĩ và lãnh thổ một lần nữa sau năm 1975
và 1988?
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen