Phạm Bá Hoa
BCD. Lê Đắc Lực (trái) thời tuổi trẻ hào hùng của 81 BCD
Người Lính Việt Nam Cộng Hòa thi hành bổn phận công dân, từ vĩ
tuyến 17 xuống tận Mũi Cà Mau, từ duyên hải quanh năm sóng vỗ
đến rừng già heo hút đội sương, từ Cao Nguyên rậm rạp xuống đồng
bằng sông rạch Cửu Long, mời quí bạn lần theo dấu chân để đến,
và nhận ra Chân Dung Những Người Lính ấy, sau khi có khái niệm
về Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Hơn 20 năm chiến đấu dũng cảm chống lại cuộc xâm lăng của nước
cộng sản Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
đã tạo nhiều chiến tích vẻ vang. Có thể nhận định mà không sợ
sai lầm rằng, thế giới chỉ biết thành tích của chúng ta qua hai
trận chiến điển hình, là cuộc phản công toàn diện trong cuộc
“tổng công kích” của quân cộng sản hồi Tết Mậu Thân đầu năm
1968, và cuộc phản công đánh bại 3 trục tấn công do lãnh đạo
nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa từ Hà Nội, xua quân chính qui vượt vĩ
tuyến 17 trực diện tấn công Việt Nam Cộng Hòa vào mùa hè 1972,
thường gọi là “Mùa Hè Đỏ Lửa”. Chớ họ không thể hiểu được những
chiến thắng với biết bao trận chiến đơn lẻ xảy ra hằng ngày hằng
đêm, đánh nhau từng người, từng tổ, từng tiểu đội, trung đội,
của Bộ Binh, của Địa Phương Quân Nghĩa Quân, trong nội địa lãnh
thổ, những chiến thắng của “lực lượng Dân Sự Chiến Đấu”, của
“Lực Lượng Đặc Biệt”, của những “Toán Lôi Hổ”, của “Liên Đoàn
Biệt Cách Dù”, ..v..v.. trong những cánh rừng già hoang dã dọc
biên giới Việt Nam-Cam Bốt. Nơi mà quân chính qui cộng sản từ
miền bắc, theo hành lang biên giới mà chúng gọi là “đường Trường
Sơn”, xâm nhập lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa.
Họ cũng không thể hiểu chiều sâu những trận chiến thầm lặng với
sắc thái du kích mà Người Lính Việt Nam Cộng Hòa phải đối phó.
Phải rình mò tìm địch mà đánh. Bất ngờ gặp nhau là đánh. Đánh
nhau bất luận bao nhiêu tay súng, bất kể ngày đêm, bất cứ nơi
nào. Chiến trường không chỉ là trận tuyến trong chiến tranh qui
ước, mà chiến trường diễn ra ngay trong nhà, ngoài ngõ, chiến
trường là bụi chuối trong vườn, là đám bắp trong rẫy, là ruộng
lúa đồng sâu. Chiến trường cũng là góc núi, bụi cây, là rừng rậm
cao nguyên, là bãi lầy đất Mũi (Cà Mau), là “biển cạn” Tháp Mười.
Từng góc phố, căn nhà, từng con đường trong thành phố, từng bến đậu
phi cơ hay nơi tàu cặp bến, đâu đâu cũng là chiến trường của
quân cộng sản trong mục đích xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa.
Nói chung là người ngoại quốc, cho dù là những phóng viên hay
những nhà lãnh đạo chính trị, họ không thể nào hiểu được những
chiến thuật trên chiến trường Việt Nam và cách vận dụng chiến
thuật đó của “Người Lính Việt Nam Cộng Hòa”, trong khi 500.000
quân Đồng Minh rất khó thích ứng với cuộc chiến mà bản chất của
nó là “chiến tranh tổng thể” trên chiến trường Việt Nam chúng
ta, bởi họ không thấu đáo nền văn hoá Việt Nam nên chưa hiểu
được Người Lính Việt Nam Cộng Hòa.
Vậy, “Người Lính Việt Nam Cộng Hòa là ai?”
“Họ”,
là những nông dân chất phác hiền hòa, là những ngư dân miền duyên
hải quanh năm sóng vỗ, là những công nhân nơi thành phố, là những học
sinh tốt nghiệp trung học, là những sinh viên hay đã tốt nghiệp
đại học, là những viên chức cán bộ đam mê đời sống quân ngũ, là
những người chuyên môn trong các ngành nghề tự do.
“Họ”, theo tiếng gọi quốc gia, tình nguyện vào các trường quân sự.
“Họ”, tuân lệnh chánh phủ, trình diện các trường quân sự.
“Họ”,
là quân nhân hiện dịch, là quân nhân trừ bị, là quân nhân đồng
hoá, là những nữ quân nhân. “Họ”, là những chuyên viên, những chiến
binh, những hạ sĩ quan, sĩ quan, tướng lãnh.
“Họ” có mặt trong các quân chủng, binh chủng, binh sở, các cơ quan tham mưu, quân trường. Khi tổ quốc lâm nguy,
“Họ”
phụng sự tổ quốc, phục vụ dân tộc. Tất cả được gọi một cách thân
thương trìu mến là “Người Lính Việt Nam Cộng Hòa”, những người lính
trong một hệ thống tổ chức chặt chẻ, kỷ luật nghiêm minh là Quân
Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Người Lính Việt Nam Cộng Hòa:
Là Người Lính Địa Phương Quân, Nghĩa Quân,
ngày đêm quanh năm suốt tháng hơn 20 năm ròng rã, âm thầm, lặng
lẽ, trấn giữ hệ thống giao thông và bảo vệ hạ tầng cơ sở.
Là Người Lính Lực Lượng Đặc Biệt (Lôi Hổ, Biệt Hải), Biệt Cách Dù, lặn lội vùng biên giới hoang vu để ngăn chận quân thù.
Là Người Lính Không Quân, từ trên không đánh xuống.
Là Người Lính Nhẩy Dù, từ trên không xuống đánh.
Là Người Lính Giang Lực, canh giữ trên khắp miền sông rạch.
Là Người Lính Hải Quân, từ ngoài biển đánh vào.
Là Người Lính Thủy Quân Lục Chiến, từ ngoài biển vào đánh.
Là Người Lính Bộ Binh, Người Lính Biệt Động Quân,
đánh địch ngay trên bờ nam Bến Hải trong tầm đạn quân thù. Đánh
địch dọc biên giới Tây Nguyên núi rừng rậm rạp. Đánh địch trên
chót Mũi Cà Mau quanh năm ngập nước, trên biển cạn Tháp Mười,
trong Rừng Sát sình lầy gai gốc, giữa đồng bằng trù phú Cửu
Long. Đánh địch để giành lại từng góc phố của thủ đô, từng ngôi
nhà giữa cố đô cổ kính, từng bờ tường của cổ thành Quảng Trị.
Là Người Lính Pháo Binh, Công Binh, Thiết Giáp, Truyền Tin, yểm trợ Đồng Đội trên khắp chiến trường.
Là Người Lính Tiếp Vận, Quân Trường, Chiến Tranh Chính Trị, Hành Chánh, Tham Mưu, yểm trợ Đồng Đội từ các hậu phương.
Người Lính” đó đã miệt mài với chiến trận, và mệt nhoài sau
chiến trận. “Họ” đã đánh địch đến giây phút cuối cùng! “Họ”,
xứng danh là “Người Lính Việt Nam Cộng Hòa”.
Người
Lính Việt Nam Cộng Hòa, đã anh dũng hi sinh nhưng không được yên
bình vĩnh cữu trong các nghĩa trang mà tổ quốc ghi công, vì quân cộng
sản đào mồ cuốc mả. Là những chiến sĩ đã để lại một phần thân
thể góp phần gìn giữ giang sơn, nhưng bị kẻ thù nhục mạ đọa đày.
Là những quân nhân có vầng trán nhăn nheo với mái tóc già nua
trước tuổi. Là những người tù chính trị bị cộng sản lưu đày
trong các trại tập trung nghiệt ngã trên khắp miền quê hương đất
nước, gánh phân người làm phân bón rau xanh, khiêng nước tiểu
tưới lên hoa màu, nhưng “Họ” chỉ được ăn những cọng rau do phân
và nước tiểu của “Họ” mà vươn lên. Để rồi nhiều người trong số
“Họ”, đã chết trong đau thương, đói khổ, nhọc nhằn!
Người Lính Việt Nam Cộng Hòa, khi rời đất nước lưu vong với hai
bàn tay trắng, chỉ còn lại tình thương của vợ của con, của đồng
hương đồng đội, che chở cho nhau nơi xứ người xa lạ.
Đó,
là “chân dung Người Lính Việt Nam Cộng Hòa”, mà người phương Tây
chưa thể nào nhận ra được. Bởi, họ chưa hiểu được chiều sâu của lịch
sử và văn hoá Việt Nam, họ chưa hiểu được chiều sâu tính chất
tráo trở lật lọng với bản chất độc tài tàn bạo của cộng sản Việt
Nam, họ cũng chưa hiểu được chiều sâu của cuộc chiến tranh tự
vệ về phía chúng ta. Do vậy mà người phương Tây chưa thể đánh
giá được chiều sâu của cuộc chiến trên lãnh thổ Việt Nam Cộng
Hòa. Một cuộc chiến mà trong đó, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
xua quân vượt biên giới xâm lăng nước Việt Nam Cộng Hòa. Không
thể nói khác được, dù cùng chủng tộc, nhưng hai quốc gia đều
được thế giới công nhận với những tòa đại sứ thiết lập trên lãnh thổ mỗi
quốc gia. Quân của quốc gia này sang đánh chiếm quốc gia kia,
ngoài chữ “xâm lăng” ra, không có chữ nào khác để chỉ hành động
đó cả. Những ngôn từ mà cộng sản sử dụng để nói đến cuộc chiến
này, đều là những dối trá đánh lừa dư luận quốc nội lẫn quốc
tế, ngụy trang mục tiêu chiến lược của họ.
“Chân
Dung Người Lính Việt Nam Cộng Hòa”, hình thành “Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa”. Một quân lực hình thành trong chinh chiến, rèn luyện trong
chiến chinh, nhanh chóng trưởng thành trong chiến trận. Và từ
trong chiến trận, đã tạo nên những chiến tích vang danh, những
anh hùng được toàn dân ngưỡng mộ. Vào giờ thứ 25 của một giai
đoạn chiến đấu, vẫn tạo thêm những anh hùng cho lịch sử đương
đại của tổ quốc, “thành mất chết theo thành”.
Vì vậy:
”Người
Lính Việt Nam Cộng Hòa rất xứng đáng được vinh danh, dù ngày 30
tháng 4 năm 1975 đã bị bức tử sau hơn 20 năm dũng cảm chiến đấu tự vệ,
nhưng đã thể hiện cao nhất về khả năng và tinh thần chiến đấu
nối tiếp dòng lịch sử vẻ vang của tổ quốc, thể hiện vẹn tròn đạo
nghĩa và truyền thống bất khuất kiêu hùng của dân tộc Việt
Nam”.
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen