Hậu
thế xin dùng chữ “hy sinh” để nói lên lòng tiếc thương với cố Hạ Sĩ
Trần Văn Minh (họ Trần theo như lời thuật lại của cố Đại Úy QC Tổng Tham
Mưu Trần Văn Hoàng). Dường như 1 tiếng đồng hồ trước đó, Thượng Sĩ QC
Trần Chánh Tạo cũng đã tự sát tại phòng trực ban Bộ TTM chỉ cách ông
Hoàng 2 thước. Ông Tạo (người di cư từ Bắc) đã gởi lời trăn trối cuối
trên bàn “Em chết, Đại Úy nhớ cúng rượu cho em trong ngày giổ” !!!
“Khi trầm lặng nào phải tâm tư trống vắng” là câu hát của các sĩ quan QC khi trực chiến, khi về phép hay khi tuần tra. Sự im lặng của hậu bối hôm nay không phải để lãng quên, nhút nhát. Miền Nam không may đã có những lãnh đạo bạc nhược. Cái giá phải trả là sự hy sinh máu xương của quân dân. Trưa nay, con sẽ rót rượu thay cha cúng tế các vị, Ngũ Hổ Tướng và dân vô tội ở trận đánh Ngã Tư Bảy Hiền….Nguyện xin dân tộc VN thoát mê lầm, tối tăm để tìm con đường sáng giữ vững cơ đồ…
Lời
giới thiệu: Giờ thứ 25 của ngày 30 tháng 4-1975, có một hạ sĩ quan Quân
Cảnh của đại đội 1 tại Tổng Tham Mưu đã tự sát dưới chân cột cờ trước
tòa lầu chính. Một Quân Cảnh còn sống đến hôm nay sẽ kể lại câu chuyện.
Nhưng trước đó xin quý vị nghe qua về cuộc đời của chính tác giả: Anh
Huỳnh Hồng Hiệp gốc Kiến Hòa, sinh sống tại Sài Gòn đã đầu quân vào binh
chủng Quân Cảnh từ cấp binh nhì. Sau đó anh lên binh nhất rồi đi học
lớp Hạ Sĩ Quan căn bản, trải qua lớp chuyên môn binh chủng rồi phục vụ
tại Phú Quốc. Hàng ngày những hạ sĩ quan Quân Cảnh VNCH phải đối diện
với 40,000 chiến binh cộng sản trong các trại giam. Đây là một nhiệm vụ
vô cùng khó khăn phức tạp và hiểm nghèo. Sau khi hiệp định Paris ký kết,
trại tù binh giải tán, các tiểu đoàn Quân Cảnh của Phú Quốc trở về đất
liền tham dự các buổi hành quân tảo thanh và bình định. Chiến dịch chấm
dứt. Một số tiểu đoàn giải tán, binh sĩ chuyển qua Biệt Động Quân. Các
hạ sĩ quan Quân Cảnh trong đó có thanh niên Kiến Hòa Huỳnh Hồng Hiệp
phải vào Dục Mỹ huấn nhục. Vừa vất vả, vừa bị các quân nhân đơn vị bạn
ghét Quân Cảnh nên kỳ thị phá phách. Nhưng rồi mọi thứ cũng trôi qua và ở
trong câu chuyện cuối tháng Tư sau đây, xin mời quý vị theo chân người
hạ sĩ quan Quân Cảnh gian truân của chúng ta trên đường từ Dục Mỹ về Sài
Gòn cho đến ngày cuối tại Bộ Tổng Tham Mưu.
Sau
cơn hồng thủy 75, anh Huỳnh đã ở lại Sài Gòn rồi sau này mới vượt biên.
Vì năm 75 chợt thấy mình yêu nước nên ở lại. Chuyến vượt biên những năm
sau là thảm kịch gia đình. Nhưng đây lại là một câu chuyện khác. Hôm
nay chúng ta chỉ nghe câu chuyện chấm dứt dưới chân cờ.
Riêng
đối với các quân nhân Việt Nam Cộng Hòa đã chạy được qua ngả Tân Sơn
Nhất vào tuần lễ cuối cùng. Nếu đi ngang qua cổng trại Trần Hưng Đạo của
Bộ Tổng Tham Mưu thì sẽ thấy Trung sĩ Huỳnh đứng giữ trật tự. Suốt tuần
lễ dài như cả trăm năm, anh vẫn đứng gác cho đến giờ phút cuối để các
cấp trên di tản theo hệ thống quân giai. Bởi vì người trai Kiến Hòa đã
không biết tại sao trong những giờ phút đó, anh lại chợt thấy mình yêu
nước, yêu quân đội. Mà quân đội đối xử với anh có đẹp đẽ gì đâu?
Giao Chỉ San Jose.
* * *
Vào khoảng 8 giờ sáng, ngày 29 tháng 3-1975, tôi với một vài người bạn ra chợ Dục Mỹ để uống cà phê và cũng để nghe ngóng tình hình chiến sự. Tin tức từ những quân nhân hướng Khánh Dương chạy về cho biết là phòng tuyến này do các chiến sĩ Nhảy Dù ngăn chận Cộng quân đã đổ vỡ. Chúng tôi lập tức trở về TTHL Dục Mỹ thì quang cảnh quân trường đã thay đổi hẳn. Các khóa sinh và cơ hữu của trung tâm ra các giao thông hào trong tư thế sẵn sàng tác chiến. Biến động này làm cho nhóm 17 khóa sinh gốc Quân Cảnh chúng tôi lại thêm hoang mang. Số là nhóm chúng tôi đã thụ huấn xong khóa cuối Rừng Núi Sình Lầy và có danh sách được trở về binh chủng Quân Cảnh. Khóa học đã mãn hơn 10 ngày rồi mà chưa có Sự Vụ Lệnh để trình diện đơn vị. Chúng tôi cử một đại diện có cấp bậc cao nhất trong nhóm là Thượng Sĩ lên trình diện Đại Tá CHT/TTHL Dục Mỹ sau khi đã qua các văn phòng theo hệ thống quân giai. Đại tá Đại rất bận rộn nhưng ông vẫn cho gặp. Ông ngạc nhiên về trường hợp chậm trễ. Tuy nhiên sau cùng, ông lục ở ngăn kéo nơi làm việc tìm ra được Sự Vụ Lệnh mà ông đã ký rồi và đưa ra trao cho trưởng toán chúng tôi.
Vào khoảng 8 giờ sáng, ngày 29 tháng 3-1975, tôi với một vài người bạn ra chợ Dục Mỹ để uống cà phê và cũng để nghe ngóng tình hình chiến sự. Tin tức từ những quân nhân hướng Khánh Dương chạy về cho biết là phòng tuyến này do các chiến sĩ Nhảy Dù ngăn chận Cộng quân đã đổ vỡ. Chúng tôi lập tức trở về TTHL Dục Mỹ thì quang cảnh quân trường đã thay đổi hẳn. Các khóa sinh và cơ hữu của trung tâm ra các giao thông hào trong tư thế sẵn sàng tác chiến. Biến động này làm cho nhóm 17 khóa sinh gốc Quân Cảnh chúng tôi lại thêm hoang mang. Số là nhóm chúng tôi đã thụ huấn xong khóa cuối Rừng Núi Sình Lầy và có danh sách được trở về binh chủng Quân Cảnh. Khóa học đã mãn hơn 10 ngày rồi mà chưa có Sự Vụ Lệnh để trình diện đơn vị. Chúng tôi cử một đại diện có cấp bậc cao nhất trong nhóm là Thượng Sĩ lên trình diện Đại Tá CHT/TTHL Dục Mỹ sau khi đã qua các văn phòng theo hệ thống quân giai. Đại tá Đại rất bận rộn nhưng ông vẫn cho gặp. Ông ngạc nhiên về trường hợp chậm trễ. Tuy nhiên sau cùng, ông lục ở ngăn kéo nơi làm việc tìm ra được Sự Vụ Lệnh mà ông đã ký rồi và đưa ra trao cho trưởng toán chúng tôi.
Khi
nhận được Sự Vụ Lệnh thì Quân Trường Dục Mỹ không thể cung cấp phương
tiện đến Nha Trang. Chúng tôi đành tự túc mạnh ai nấy đi. Đến chiều
khoảng 1 giờ, chúng tôi gặp nhau tại ở Nha Trang với hy vọng tìm được
máy bay về Sài Gòn. Tôi và vài bạn nữa đi ngang qua Bộ Tư Lệnh QĐ II thì
lá cờ tướng đã hạ xuống, Quân Cảnh gác cổng không còn. Đi quan Bộ Chỉ
Huy BĐQ QK II thì cũng vườn hoang nhà trống. Súng M16 cả đống nên mỗi
anh em nhặt một cây để phòng thân. Không có phương tiện của quân đội nên
chúng tôi mạnh ai nấy đi bằng cách đổ ra ngả Ba Thành và leo xe nhà
binh tìm đường xuôi Nam.
Lúc
bấy giờ có Quân Cảnh Hiệp, người lớn tuổi hơn tôi nên bạn bè gọi là
Hiệp Già. Anh có một vợ 5 con, đơn vị gốc là Tiểu đoàn 8 Quân Cảnh, cùng
học chung với tôi mấy khóa ở Trường Quân Cảnh và Trường HSQ Đồng Đế.
Suốt đêm hôm đó và đến khoảng 3 giờ chiều hôm sau, đoàn xe di tản đến
thị xã Phan Thiết. Khi xe ra khỏi Phan Thiết một đỗi chúng tôi gặp một
số quân nhân chạy ngược lại, được biết Việt cộng phục kích và có giao
tranh ở ngả ba Bình Tuy (Rừng Lá). Tin này làm chúng tôi chùn chân vì
tôi biết chắc với đám quân không có chỉ huy nếu gặp Việt cộng thì chỉ có
chết. Sở dĩ tôi nghĩ như thế là vì suốt từ nhiều ngày qua đã có lúc
giành mấy củ khoai ở cổng Ba Làng Cam Ranh mà bắn nhau chết. Thị xã Phan
Thiết đang yên lành thì bị cướp, bị phá cửa sắt lấy bia, nước đá, thực
phẩm tạo ra sự giành giựt rồi giết nhau. Điều này ai có đi khoảng thời
gian đó đều biết. Với máu Quân Cảnh trong người, tôi rất bất mãn nhưng
không thể làm gì được.
Sau
cùng, tôi bàn với anh Hiệp già là nên trở lại Phan Thiết tìm ghe hoặc
tàu bè về Vũng Tàu chắc ăn hơn. Anh Hiệp không đồng ý nên chúng tôi chia
tay. Sau cùng tôi cũng tìm đường thủy về Sài Gòn qua ngả Vũng Tàu.
Trình diện ở trại đường Tô Hiến Thành xong, được lệnh trả tôi về binh
chủng. Tôi bắt thăm trúng được Tiểu đoàn 5 Quân Cảnh. Nỗi vui mừng thật
lớn, coi như thoát được nạn trong mấy ngày vừa qua. Hơn sáu năm đi lính,
lần đầu tiên bắt thăm được trúng đơn vị ở gần nhà. Biết bao là mừng
vui.
Tại
Ban Nhân Viên Tiểu Đoàn tôi được lệnh tăng phái cho Đại đội 1 Quân Cảnh
tại Bộ TTM. Thật tình mà nói, tôi chỉ được nghe tên vị Tiểu Đoàn Trưởng
là Thiếu tá Hưng hay Trung tá Hưng (không rõ), còn các Đại Đội Trưởng
và Trung Đội Trưởng của tôi tôi chưa kịp gặp mặt, hoàn toàn không biết
là ai. Cứ nhận lệnh đi tăng phái đã. Tôi không nhớ chính xác bao nhiêu
quân nhân từ Tiểu đoàn 5 Quân Cảnh tới tăng cường cho Đại Đội 1 Quân
Cảnh, hình như khoảng 15 anh em gì đó. Nhiệm vụ chúng tôi đứng các nút
chặn ngả ba Chú Ía, ngả tư Võ Di Nguy Võ Tánh, Võ Tánh gần Bệnh Viện III
Dã Chiến Hoa Kỳ, và Võ Tánh gần ngả ba Trương Quốc Dung.
Có
một ngày, vào khoảng 15 tháng 4-1975, tôi gặp lại một bạn Quân Cảnh
cùng chạy ở Dục Mỹ hỏi thăm anh Hiệp Già và được biết anh bị một viên
đạn bắn sẻ của Việt cộng trúng ngay giữa tam tinh gần ngả ba Rừng Lá.
Tôi bần thần về tin này cả tuần. Trong thời gian tăng phái cho TTM, ngày
đứng đường, đêm về các điểm phòng thủ trong Tổng Tham Mưu. Có một đêm
tôi nằm dưới thềm Tổng Cục Tiếp Vận coi TV thấy Tổng thống Thiệu đọc
diễn văn chửi Mỹ. Mắt coi TV, tai nghe đạn pháo kích lòng dạ sao xuyến
tan nát. Cường độ pháo của cộng quân càng tăng. Trước 3 trái thì 2 trái
vô Tân Sơn Nhất còn trái vô TTM. Sau 2 trái thì 1 trái vô Tân Sơn Nhất
và 1 trái vô TTM. Nghe quen, tôi cũng bắt chước số anh em khác mà đoán
tầm gần xa, lúc nào sắp nổ. Tôi vẫn ở TTM nhưng phạm vi hoạt động rút
lại gần hơn và chịu pháo nhiều hơn.
Trong
thời gian này, bên gia đình vợ tôi có đường chạy ra ngoại quốc. Nếu
muốn đi thì chắc chắn chúng tôi sẽ ra đi bình yên. Tôi là hạ sĩ quan với
sắc phục Quân Cảnh. Đi đâu cũng gặp toàn bạn bè cùng binh chủng. Không
những đi dễ dàng mà còn lo cho được cả gia đình họ hàng. Nhưng không
biết tại sao vào những giây phút đó tôi lại thấy mình yêu nước. Bỏ đi
không đành. Đó là tấm lòng thành thực, nghĩ sao thì nói vậy. Sau này vợ
tôi cứ nói mãi về vụ di tản. Bây giờ bả không còn nữa nhưng tôi vẫn còn
nghe như tiếng nói than thở bên tai.
Sáng ngày 30 tháng 4-1975: Tôi được lệnh tăng cường cho cổng 1 TTM. Lúc bấy giờ cộng quân gia tăng cường độ pháo kích dữ dội. Các Quân Cảnh cơ hữu của Đại Đội 1 Quân Cảnh rất bận rộn. Có tin cổng 4 có một số sĩ quan TTM phá rào chui ra đến nỗi Quân Cảnh Đại Đội 1 TTM phải dùng hàng rào người mà cản lại. Cũng có một số sĩ quan cấp Trung và Đại Tá tự ký Sự Vụ Lệnh ra cổng. Chưa đến nỗi hỗn loạn nhưng Quân Cảnh khá mệt nhọc vất vả mới giữa được trật tự. Lệnh Tướng Hạnh là nội bất xuất, ngoại bất nhập. Chúng tôi thì chỉ có nhiệm vụ yểm trợ cho Đại Đội 1 Quân Cảnh mà thôi.
Tôi
quan sát tại điếm canh cổng số 1 có anh Quân Cảnh làm việc thật tích
cực và hiệu quả. Nhìn kỹ ra là anh Minh người cao lớn. Tôi thật tình
quên mất họ của Minh là Trần hay Nguyễn. Nhưng có thể là Trần Văn Minh.
Minh cùng chung một khóa với tôi ở Trường HSQ Đồng Đế. Đó là khóa 1/71
Đặc Biệt HSQ hiện dịch, lúc đó tướng Linh Quang Viên làm Chỉ Huy Trưởng.
Sau đó chúng tôi gặp lại nhau tại Trường Quân Cảnh một hai lần nữa. Giờ
đây, rõ ràng là Minh đang ở Đại Đội 1 Quân Cảnh TM. Giơ tay chào nhau,
nói vài câu, rồi ai làm việc nấy. Lúc đó tôi ở cổng chánh khoảng 100 mét
về hướng tòa nhà chánh.
11 giờ 30 ngày 30 tháng 4-1975: Lúc 11 giờ 30, từ cổng 1 TTM tôi nghe súng nổ dữ dội ở phía Bệnh Viện Dã Chiến Hoa Kỳ, thì ra các anh em LĐ 81 BCND đang bắn xe tăng Việt cộng. Khi chiếc xe T54 của Việt cộng có treo cờ GPMN hướng về cổng 1 TTM thì tất cả chúng tôi lái xe Jeep rút về văn phòng Đại Đội 1 Quân Cảnh vì xe cộ đồ đạc tất cả đều để đây. Khi xe ngừng, Minh bước xuống và nước mắt đã đầm đìa. Tôi nhìn Minh mà lo cho thân mình nên vội vàng cột ba lô mang súng ống, rồ xe Mobylette phóng chạy. Cái cảnh lúc đó thật là hoảng loạn, mạnh ai nấy lo, giành đường thoát ra.
11 giờ 40 ngày 30 tháng 4-1975: Sau lưng tôi, Minh khóc và nói một mình “Thôi rồi, mất nước rồi.” Nói xong anh Minh bước tới gần cột cờ, nghiêm chỉnh đưa tay lên, chào xong móc khẩu Colt 45 bên hông kê lên màng tang. Một tiếng nổ đơn độc vang lên. Tôi chắc tiếng nổ đó đã hòa tan trong tiếng máy của hàng trăm chiếc xe Honda, Vespa, Suzuki. Minh ngã xuống. Trung sĩ I Trần Văn Minh đã trả xong nợ nước vào giờ thứ hai mươi lăm. Tôi là một người sợ chết nên nhìn Minh một lần chót, nén xúc động và chạy thoát thân với hàng đoàn người kia.
Giờ
đây Minh họ Nguyễn hay Trần tôi không biết chắc. Anh đã chết thật hay
chỉ bị thương cũng không biết chắc. Có điều Minh đã làm một việc thật là
đáng để tôi quỳ xuống mà lạy anh. Tất cả các đoạn trên tôi viết dông
dài chỉ nhằm mục đích kể lại đoạn cuối về cái chết của một Quân Cảnh tại
Bộ Tổng Tham Mưu. Chúng tôi là binh chủng lo về quân kỷ của quân đội.
Xin các anh em chiến hữu hiểu rằng chúng tôi cũng sống chết với quân đội
như anh em. Và trong hàng ngũ hạ sĩ quan chúng tôi cũng có người tự vẫn
dưới ngọn cờ Tổng Tham Mưu vào giờ thứ 25. Gần 30 năm qua, ngồi cố nhớ
mà viết lại chắc có nhiều chi tiết thiếu sót, ước mong các chiến hữu bổ
khuyết dùm cho.
Quân Cảnh Huỳnh Hồng Hiệp, San Jose
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen