Đảng là đại biểu trung thành cho ai? - 1
Đảng là đại biểu trung thành cho ai? - 2
Âu Dương Thệ (Danlambao) - Suốt
69 năm qua những người CS tự nhận là chống phong kiến, nhưng chính
họ lại khai triển với mức độ tinh vi và bạo ngược
hơn về cách cầm quyền độc đoán của chế độ phong kiến của các vua chúa,
coi nhân dân như nô lệ, đất nước thuộc tài sản riêng của đảng độc quyền.
Thời con người còn ăn lông ở lỗ, kẻ có sức mạnh hơn người đã dùng sức
mạnh của mình để đè nén người khác. Thời phong kiến kẻ thắng được làm
vua.
Thời XHCN cũng bắt chước thời phong kiến, coi nhà nước là của riêng của đảng (vua tập thể), quân đội, công an là phương tiện độc quyền, tự do sinh sát dân. Đảng dùng bộ máy công an mật vụ đàn áp người khác chính kiến, dùng cai văn nghệ - người canh gác tư tưởng- để bịt miệng dân và bẻ cong ngòi bút của người cầm bút. Như vậy, những người lãnh đạo XHCN đã học mót cách cai trị bạo ngược của thời kỳ Trung cổ man rợ. Vì thế họ không phải những nhà lãnh đạo văn minh mà là những người cầm đầu một đảng ác ôn phản động, hống hách lợi dụng quyền lực theo tiêu chí: Quyền lực phát ra từ nòng súng!...
Thời XHCN cũng bắt chước thời phong kiến, coi nhà nước là của riêng của đảng (vua tập thể), quân đội, công an là phương tiện độc quyền, tự do sinh sát dân. Đảng dùng bộ máy công an mật vụ đàn áp người khác chính kiến, dùng cai văn nghệ - người canh gác tư tưởng- để bịt miệng dân và bẻ cong ngòi bút của người cầm bút. Như vậy, những người lãnh đạo XHCN đã học mót cách cai trị bạo ngược của thời kỳ Trung cổ man rợ. Vì thế họ không phải những nhà lãnh đạo văn minh mà là những người cầm đầu một đảng ác ôn phản động, hống hách lợi dụng quyền lực theo tiêu chí: Quyền lực phát ra từ nòng súng!...
Tại sao “Cách mạng Mùa thu” biến thành chế độ toàn trị coi dân
như nô lệ?
Sau 69 năm cướp chính quyền: Đặt lại vấn đề ĐCS còn tư cách cầm quyền hay không?
Thời
con người còn ăn lông ở lỗ, trong những cuộc tranh giành phẩm vật
thường kẻ nào có sức mạnh sẽ thắng, có thể giết chết đối thủ và chiếm
toàn bộ chiến lợi phẩm. Đây là thời kỳ con người sống theo "luật rừng
xanh", theo
kiểu "chúa tể sơn lâm", cá lớn nuốt cá bé, kẻ mạnh giết kẻ yếu!
Tới
thời phong kiến sự thay đổi quyền lực trong xã hội cũng dựa trên bạo
lực, kẻ nổi loạn thường nêu cao chính nghĩa trừ vua bạo ngược, khi đánh
thắng được vua chúa đương thời thì tự mình xưng làm vua chúa mới. Người
chiến thắng tự coi các tài sản thiên nhiên và sinh mạng của người dân
trong nước là tài sản riêng của giòng họ mình, không những thế còn tự
giành quyền cha truyền con nối hết đời nọ đến đời kia. Khi người chiến
thắng trở thành vua, lập quân đội riêng chỉ biết trung thành với
mình, định ra các luật lệ để bảo vệ ngai vàng, sẵn sàng dùng các lực
lượng quân sự đàn áp những cuộc chống đối của nhân dân, coi dân như sở
hữu riêng, thậm chí như cỏ dại!
Sau
nhiều thế kỷ cầm quyền nhiều chế độ phong kiến từ Đông sang Tây đã xây
dựng các ngai vàng trên dối trá, bạo ngược và tội ác. Nhân loại đã chứng
kiến và cũng là nạn nhân của sự tham lam quyền lực và tha hóa đạo đức
của các vua chúa và bọn quí tộc. Các nhà khoa học xã hội đã rút ra được
bài học lịch sử: Quyền lực, tiền bạc, danh vọng có sức quyến rũ rất lớn
và dễ đưa con
người tới sa ngã. Nếu không có sức cản lại thì nó như ngựa không cương,
xe không thắng rất nguy hiểm. Các nhà khoa học còn nhận thấy, nơi nào
quyền lực càng lớn thì chính nơi đó dễ dẫn tới sự lạm dụng quyền lực
càng cao, càng thô bạo.
Ở
nhiều nước trên thế giới người dân đã nhận rõ được là, nhiều bạo chúa
thường quên đi những lời hứa ban đầu và tự dựng lên các thuyết phản khoa
học để biện minh cho những hành động tàn nhẫn và các tội ác của họ để
tiếp tục giữ quyền lực, trở thành bạo chúa cực kỳ tàn bạo và vô đạo đức,
chỉ lo đàn áp và bòn
rút tài sản của đất nước và nhân dân, coi sinh mạng của dân như thú
vật. Vì vậy đã nổ ra những cuộc Cách mạng Dân quyền và Nhân quyền 1789 ở
Pháp và 1776 ở Mỹ đòi các quyền tự do nguyên thủy của con người là tự
do tư tưởng, tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do đi lại... Đồng thời
để ngăn cản sự lạm dụng quyền lực của giới cầm quyền, các cuộc cách mạng
này còn thiết lập một hệ thống cơ chế tổ chức xã hội mới với ba cơ cấu
quyền lực căn bản trong một quốc gia là lập pháp, hành pháp và tư pháp
trên cơ sở độc lập và bình đẳng. Để thực hiện các quyền này các cuộc
cách mạng trên còn thừa nhận là, người dân có các quyền tự do hội họp,
tự do bầu cử, ứng cử; đồng thời còn xác nhận quyền bình đẳng của công
dân
trước pháp luật. Từ đó chấm dứt chế độ vua chúa độc tôn, cha truyền con
nối và thực hiện chế độ Dân chủ Cộng hòa, trong đó người dân làm chủ
vận mệnh của đất nước và quyền lực được hạn định rõ ràng cả thời gian
lẫn mức độ!
Các
cuộc Cách mạng Dân quyền và Nhân quyền chấm dứt chế độ nhân trị - luật
lệ được giải thích tùy tiện theo ý riêng của kẻ nắm quyền - và thay bằng
chế độ pháp trị. Tức là chấm dứt quyền sinh sát nhân dân tùy lòng tốt,
tùy sự vui buồn, hỉ nộ của kẻ có quyền lực và thay bằng cơ chế luật pháp
từ giai đoạn soạn thảo,
tới ban bố và thi hành phải do những cơ quan và nhân sự độc lập, có khả
năng chuyên môn, có tinh thần trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp đảm
trách.
Trải
qua hơn hai thế kỷ các xã hội Pháp, Mỹ, Bắc Âu và Tây Âu đã không ngừng
hoàn thiện chế độ Dân chủ đa nguyên và cơ chế kinh tế thị trường tiến
bộ theo hướng mở rộng các quyền tự do dân chủ, thượng tôn pháp luật...
Nhờ vậy nhân dân các nước này thực sự đang được hưởng các quyền dân chủ
tự do căn bản, đồng thời sống trong phồn vinh. Các quốc gia này đang trở
thành gương sáng về chế độ Dân chủ đa nguyên
và Kinh tế thị trường trên hoàn cầu. Nhiều nước Á châu, Úc và Nam Mỉ
cũng đã tự tin và sáng tạo thực hiện chế độ Dân chủ đa nguyên và Kinh tế
thị trường đang trở thành các nước dân chủ có nền công nghiệp tiên
tiến... Như thế Dân chủ đa nguyên và Kinh tế thị trường tiến bộ không
còn là đặc thù của một xã hội nào, trái lại trở thành tài sản trí tuệ và
sáng tạo chung của nhân loại.
Từ
khi loài người kết hợp thành những xã hội và quốc gia, nhiều học thuyết
chính trị và kinh tế đã được khai sinh và đã được thử thách từ thời
Thượng cổ với luật rừng
xanh, thời Trung cổ với chế độ phong kiến, tới các chế độ độc tài cá
nhân, quân phiệt và đảng trị như các đảng Cộng sản và chế độ Dân chủ Đa
nguyên. Nhưng đa số nhà khoa học xã hội đã nhận định, chế độ Dân chủ đa
nguyên là chế độ gần với con người văn minh nhất. Tuy nó chưa phải là
chế độ tuyệt hảo, nhưng nhờ có những cơ chế tổ chức quyền lực được phân
chia độc lập và bình đẳng giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp,
nên những lạm dụng quyền lực đã bị giới hạn triệt để. Không những thế,
trong Dân chủ đa nguyên các quyền tự do dân chủ căn bản về dân quyền và
nhân quyền của người dân được tôn trọng thực sự. Trong Dân chủ đa nguyên
các chính đảng - ngay cả đảng cầm quyền và từ tổng thống tới thủ
tướng - không có quyền đứng trên tất cả, nó bị theo dõi và kiểm soát
nghiêm ngặt và thường quyên qua nhiều hệ thống công quyền và dân quyền.
Tóm lại, Dân chủ đa nguyên rất phù hợp với xã hội loài người, biết triển
khai và phát triển mặt mạnh của con người, đồng thời biết những phương
pháp thích hợp và hữu hiệu để ngăn chặn những tệ trạng của quyền lực...
Vì thế nơi nào các định chế Dân chủ đa nguyên được thực thi triệt để thì
nơi đó người dân có nhân phẩm cao, đất nước văn minh!
***
Vào
tiền bán Thế kỷ 20 cả dân tộc VN đang sôi sục đánh đuổi thực dân Pháp
đang đè đầu sĩ phu, bóc lột nhân dân và bòn rút tài nguyên VN. Mục tiêu
chung của nhân dân ta khi ấy là giành độc lập và xây dựng một xã hội Dân
chủ Cộng hòa theo chiều hướng chung của nhiều xã hội văn minh. Nhiều tổ
chức chính trị đã tham gia, trong đó có nhóm những người CS do Hồ Chí
Minh cầm đầu và được sự đỡ đầu của Đệ tam Quốc tế Cộng sản dưới sự lãnh
đạo của CS Liên xô đứng đầu là Stalin. Nhờ biết tổ chức và có sách lược
phù hợp, những người CSVN đầu tiên đã tránh không đả động tới chủ nghĩa
CS mà chỉ tuyên bố cùng với toàn
dân và các lực lượng dân tộc đoàn kết đánh đuổi thực dân giành độc lập,
tự do và thiết lập chế độ Dân chủ Cộng hòa. Đây là ý nguyện của toàn
dân, được nhiều giới tin theo, nên nhóm ông Hồ đã thành công trong cuộc
"Cách mạng mùa Thu" cách đây đúng 69 năm. Chính ngay trong đoạn mở đầu
"Tuyên ngôn độc lập" ngày 2.9.1945 Hồ Chí Minh đã xác nhận mục tiêu cuộc
Cách mạng mùa Thu với nội dung như Cách mạng Dân quyền và Ngân quyền ở
Mỉ và Pháp gần hai thế kỷ trước. Ông Hồ đã trích dẫn Tuyên ngôn Độc lập
1776 của Mỹ:
"Tất
cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền
không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc."[1]
Và ông cũng đề cao Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp:"Người ta sinh ra tự do và bình
đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi!"[2] Chính ông Hồ đã đồng ý và còn nhấn mạnh thêm, đó là những chân lý: "Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được!"[3]
Như
vậy không ai có thể nói khác là, vào thời điểm đó Hồ Chí Minh đã thừa
nhận mục tiêu Cách mạng mùa Thu của VN cũng giống như mục tiêu Cách mạng
Dân chủ, Dân quyền và Nhân quyền của Pháp và Mỹ. Cho nên khi thành lập
chính phủ đầu tiên, ông Hồ đã dùng tên chính phủ Việt nam Dân chủ Cộng
hòa.
Nhưng
từ sau hai chiến thắng chống thực dân Pháp và chống Mỹ (riêng cuộc
chiến chống Hoa Kỳ phải nghiêm túc đặt lại: Đây là cuộc nội
chiến Bắc-Nam và chiến tranh ý thức hệ, chứ không phải "chiến tranh
giải phóng") những người chiến thắng (ĐCS) đã nghĩ rằng, đây là công lao
và thành công của riêng mình. Cho nên sau khi tiếp thu miền Bắc (1954)
và thống nhất đất nước (1975) các chiến lợi phẩm nắm được coi như sở hữu
riêng của họ: Chính quyền là độc quyền của ĐCS, quân đội và công an
cũng là phương tiện độc quyền của họ, ruộng đất và tài nguyên của đất
nước cũng đặt dưới quyền quản trị độc quyền của đảng (với tên mới "sở
hữu của nhà nước", nhưng nhà nước là của riêng đảng.)
Như
thế không ai có thể phủ nhận được là, đây chính là quan điểm của thời
phong kiến, người nổi dậy đánh thắng một triều đình rồi lên ngôi vua nắm
quyền và tự ý coi mọi thứ trong xã hội là tài sản riêng của mình. Quyền
lực phát ra từ nòng súng! Một câu nói từ cửa miệng Mao Trạch Đông,
người sáng lập chế độ toàn trị tàn bạo ở Trung quốc, đồng thời cũng là
người đỡ đầu cho chế độ toàn trị ở VN, chính nó mở ra những cơ hội cho
Bắc kinh can thiệp thô bạo vào chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ VN suốt
mấy thập kỷ qua, với các đỉnh cao là Hội nghị bí mật Thành đô (1990) và
giàn khoan HD 981 (2014).
Tư
duy và tâm lý về quyền lực đi ra từ sức mạnh của bạo lực bắt nguồn từ
thời kỳ còn sơ khai của con người trong thời ăn lông ở lỗ; giữa một số
người tranh giành nhau một lợi phẩm, kẻ nào giành được nó trở thành tài
sản riêng. Một số người tranh giành một mảnh đất, ai đánh bại được những
người khác thì sẽ giành được mảnh đất và coi đó là tài sản riêng, tự do
sử dụng bao nhiêu lâu cũng được từ cha con cháu chắt…! Đây là quan điểm
và tâm lý theo "luật rừng xanh", "chúa tể sơn lâm", kẻ mạnh ăn hiếp
người yếu như đã trình bày ở trên. Nó đã được triển khai trên một qui mô
rộng lớn hơn và tàn bạo hơn dưới thời phong kiến
Nhưng
trong thời đại tiến bộ hiện nay thì quan điểm và tâm lý này của những
người cầm quyền chế độ toàn trị ở VN chứa đựng những sai lầm căn bản so
với tiến trình phát triển chung của nhân loại:
1.
Sai lầm vì nhầm lẫn giữa việc của một cá nhân với việc chung của toàn
dân tộc. Đất nước không phải là tải sản riêng, nhân dân không phải là
tôi tớ hay nô lệ của người chiến thắng.
2.
Sai lầm về thời đại: Kéo dài quan điểm bạo lực đẻ ra quyền lực của con
người thời còn ăn lông ở lỗ và thời phong biến vào thời đại mới của thế
giới văn minh và khoa học. Trong thời đại văn minh và khoa học hiện nay,
chính quyền (nhà nước) không phải là sở hữu riêng của một cá nhân hay
một chính đảng, nó thuộc sở hữu chung của toàn dân.
3. Họ quên và bội ước với nhân dân nên đã chống lại những lời thề trước Ba đình của
người sáng lập đảng trong Tuyên ngôn Độc lập 2-9-1945, như đã trình bày ở phần trên.
Suốt
69 năm qua những người CS tự nhận là chống phong kiến, nhưng chính họ
lại khai triển với mức độ tinh vi và bạo ngược hơn về cách cầm quyền độc
đoán của chế độ phong kiến của các vua chúa, coi nhân dân như nô lệ,
đất nước thuộc tài sản riêng của đảng độc quyền. Thời con người còn ăn
lông ở lỗ, kẻ có sức mạnh hơn người đã dùng sức mạnh của mình để đè nén
người khác. Thời phong kiến kẻ thắng được làm vua. Thời XHCN cũng bắt
chước thời phong kiến, coi nhà nước
là của riêng của đảng (vua tập thể), quân đội, công an là phương tiện
độc quyền, tự do sinh sát dân. Đảng dùng bộ máy công an mật vụ đàn áp
người khác chính kiến, dùng cai văn nghệ - người canh gác tư tưởng- để
bịt miệng dân và bẻ cong ngòi bút của người cầm bút. Như vậy, những
người lãnh đạo XHCN đã học mót cách cai trị bạo ngược của thời kỳ Trung
cổ man rợ. Vì thế họ không phải những nhà lãnh đạo văn minh mà là những
người cầm đầu một đảng ác ôn phản động, hống hách lợi dụng quyền lực
theo tiêu chí: Quyền lực phát ra từ nòng súng !
***
Dưới
chế độ toàn trị công an thả cửa mớm cung, bắt nạn nhân phải nhận tội và
người đứng đầu chế độ toàn trị tự do mớm lời và bịa đặt bảo đó là nhân
dân muốn như vậy, biến trắng thành đen, giả thành thực. Để biện minh cho
việc cầm quyền độc đoán và vô hạn từ suốt 69 năm qua, những người cầm
đầu chế độ toàn trị từ thế hệ này sang thế hệ sang đã không ngừng dùng
lý luận độc đoán của kẻ chiến thắng bằng bạo lực ép mọi người phải theo,
bất chấp những sự thực khách quan đã diễn ra trên thế giới. Vì có bạo
lực trong tay nên những người cầm đầu
chế độ toàn trị đã tự do mớm lời và quyết định thay cho nhân dân. Chính
Nguyễn Phú Trọng đã tự dựng đứng lên với tuyên bố "Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta“![4] và “chỉ
có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt
để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no
và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người,
cho các dân tộc." [5]
Cũng vẫn giọng điệu của kẻ cầm súng trong tay, ông Trọng còn nói cao ngạo và bất chấp sự thực: "Từ thực tế thì thấy là chúng tôi thực hiện một đảng vẫn là hiệu quả
nhất" và còn hống hách tước quyền tự quyết của nhân dân VN: "Chúng tôi nói là ở Việt Nam chưa thấy sự cần thiết khách quan cần phải có chế độ đa đảng".[6] Những
người tiền nhiệm của ông Trọng cũng nói theo kẻ cầm dao trong tay. Ngay
trong Báo cáo chính trị của Đại hội 7 (1991) dưới thời Đỗ Mười - một
người cực kỳ bảo thủ và đã từng gây ra nhiều sai lầm nghiêm trọng - cũng
đã khẳng định rất độc đoán:
“Trong
điều kiện nước ta hiện nay không có sự cần thiết khách quan để lập nên
cơ chế chính trị đa nguyên, đa đảng đối lập. Thừa nhận đa đảng đối lập
có nghĩa là tạo điều kiện cho sự ngóc đầu dậy ngay tức khắc và một cách
hợp pháp các lực lượng phản động, phục thù trong nước và từ nước ngoài
trở về hoạt động chống tổ quốc, chống nhân dân, chống chế độ.”[7]
Nhưng
về những lời tuyên bố chống lại Dân chủ đa nguyên như vậy, Đỗ Mười và
Nguyễn Phú Trọng phải trả lời thẳng thắn trước nhân dân: Họ đang chống
lại những lời thề của Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập 2.9.1945 với
các nội dung rất rõ như đã trình bày phần đầu? Hay họ đang thừa nhận là,
người sáng lập chế độ đã đánh lừa nhân dân? Và như thế, Tuyên ngôn Độc
lập ngày 2.9.1945 của Hồ Chí Minh chỉ là treo đầu dê bán thịt chó?
Tuy
Nguyễn Phú Trọng vừa vẽ ra một bức tranh thiên đàng cực lạc của xã hội
XHCN ở VN như vừa trình bày ở trên, nhưng hình ảnh thực sự của xã hội ấy
sau 69 thực hiện như thế nào? Cũng chính Nguyễn Phú Trọng phải xác nhận
chế độ độc đảng đang gây nên những bất công khủng khiếp, không chỉ đối
với nhân dân mà cả trong đảng:
“Trong
điều kiện Đảng cầm quyền, nhiều đảng viên có chức, có quyền, có điều
kiện nắm giữ tài sản, tiền bạc, cán bộ;... đất nước lại phát triển kinh
tế thị trường, mở cửa hội nhập, nhiều người lo lắng về Đảng, về bản
chất Đảng, lo lắng mặt trái của cơ chế thị trường, của hội nhập quốc tế
tác động vào Đảng. Bây giờ trong Đảng cũng có sự phân hóa giàu - nghèo,
có những người giàu lên rất nhanh, cuộc sống cách xa người lao động;
liệu rồi người giàu có nghĩ giống người nghèo không? Nhà triết học cổ
điển Đức L.Foiơ Băc đã từng nói rằng, người sống trong lâu đài nghĩ khác
người ở trong nhà tranh. Mai kia Đảng này sẽ là đảng của ai? Có giữ
được bản chất là đảng cách mạng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao
động, của dân tộc không?”[8]
Ông Trọng cũng phải nhìn nhận, nay nhân dân rất oán ghét chế độ toàn trị XHCN:
"Đứng
trên tổng thể mà xét, hiện nay cái làm cho quần chúng oán thán nhất,
gây mất lòng tin nhất, làm xói
mòn bản chất Đảng đó chính là sự suy thoái cả về tư tưởng chính trị và
đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; cái này
thật là nghiêm trọng." [9]
Cũng
vào dịp kỷ niệm 69 năm đi theo con đường XHCN Chủ tịch nước Trương Tấn
Sang đã phải mỉa mai dùng lời đàm tiếu của người dân về sự suy thoái đạo
đức trong chính sách cơ cấu cán bộ của
chế độ toàn trị là "Nhất hậu duệ, nhì tiền tệ, ba quan hệ, bốn trí tuệ...”[10]
***
Mặc
dầu thừa nhận bất công với nhân dân,
tha hóa đạo đức của những kẻ có quyền trong cơ chế XHCN, tức là công
nhận kết quả hoàn toàn trái với mục tiêu sau 69 năm cai trị, nhưng nhóm
cầm đầu chế độ toàn trị lại vẫn ép buộc nhân dân phải tiếp tục tuân
theo. Mâu thuẫn đa chiều giữa lời nói và hành động của nhóm cầm đầu toàn
trị càng thấy thêm rất rõ trong phong trào tuyên truyền với khẩu hiệu“45 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh” đang
phát động rầm rộ trong dịp 69 năm cướp chính quyền. Trong việc này họ
làm như rất kính trọng ông Hồ, nhưng thực ra chỉ là mục tiêu chính trị
nhằm phục vụ ý đồ riêng của họ. Họ muốn dùng hình ảnh ông Hồ để bảo vệ
chế độ, bảo vệ quyền
lực cho cá nhân và phe nhóm. Vì nếu kính trọng ông Hồ thực sự thì họ
phải thực hiện trung thực những lời thề của ông với nhân dân được ghi
trong Tuyên ngôn Độc lập là thực hiện đầy đủ và toàn vẹn Dân quyền và
Nhân quyền như trong Tuyên bố của Cách Pháp 1789 và Tuyên ngôn Độc lập
của Mỉ 1776 - như đã trình bày ở trên - đồng thời họ cũng phải tôn trọng
và thực hiện những ước nguyện cuối cùng liên quan tới cá nhân của người
sáng sập đảng đã ghi trong Bản di chúc.
Hai việc liên quan trực tiếp tới cá nhân Hồ Chí Minh ông đã viết rõ trong Bản Di chúc
là:
1. Ông mong được hỏa táng.
2.
Khi đất nước thống nhất những người có trách nhiệm trong đảng phải thực
hiện một phong trào chỉnh đốn đảng nghiêm túc và toàn diện để trong
sạch hóa và phục vụ nhân dân.
Cho
tới nay sau 45 năm cả hai ước mơ cá nhân của Hồ Chí Minh đã hoàn toàn
không được những người có trách nhiệm trong đảng qua nhiều thế hệ không
thèm đếm xỉa tới, thế thì nay làm sao lại nói là “45 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh”?
Về hai điểm liên quan tới ước nguyện cá nhân ông Hồ, Bộ chính trị thời Nguyễn Văn Linh đã giải thích:
“Sở
dĩ trước đây chưa công bố đoạn Bác viết về yêu cầu hỏa táng là vì thể
theo nguyện vọng và tình cảm của nhân dân, Bộ chính trị Ban chấp hành
Trung ương Đảng (khóa III) thấy cần thiết phải giữ gìn lâu dài thi hài
của Bác để sau này đồng bào cả nước, nhất là đồng bào miền Nam, bạn bè
quốc tế có điều kiện tới viếng Bác...” [11]
Nhưng
rõ ràng đây chỉ là cách mớm lời để phục vụ mục tiêu chính trị riêng cho
Đảng của Bộ chính trị khi ấy, chứ tuyệt nhiên không phải ý muốn của Hồ
Chí Minh. Tiếp theo bản Thông báo này còn nói thêm “Chính vì lẽ đó mà chúng ta đã xin phép Bác về điểm này được làm khác với lời Bác dặn”.[12].
Khi ấy ông Hồ đã mất, cho nên đây không phải
Bộ chính trị “xin phép” mà chính Bộ chính trị đã tự ý tẩy xóa Bản Di
chúc của ông sao có lợi nhất cho Đảng mà thôi! Không những vậy, 45 năm
sau các Bộ chính trị sau vẫn từ chối lời ước muốn cá nhân của người sáng
lập chế độ. Họ yêu và kính Hồ Chí Minh như vậy sao? Đã thế Bộ chính trị
hiện nay vẫn mở miệng dối trá với chính mình và hô hoán đánh lừa nhân
dân “45 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh”!
Còn
về điểm trong Di chúc Hồ Chí Minh yêu cầu chỉnh đốn Đảng sau khi thắng Mỹ, như “chỉnh đốn lại Đảng, chăm sóc đời sống của các tầng lớp nhân dân...”[13] Họ cũng đã tìm cách lấp liếm, tự ý hủy bỏ và giải thích rất tùy tiện:“Việc
chưa công bố một số đoạn Bác viết thêm năm 1968 về những việc cần làm
sau khi cuộc chống Mỹ, cứu nước giành được thắng lợi hoàn toàn, đó là vì
năm 1969 khi
Bác qua đời, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước còn đang gay go ác
liệt, chúng ta chưa giành được thắng lợi cuối cùng. Nên việc công bố
những đoạn nói trên lúc ấy là chưa thích hợp.”[14]
Nhưng
từ sau chiến thắng 1975 vẫn chưa có lần nào các Bộ chính trị sau này đã
“chỉnh đốn lại Đảng” triệt để và toàn diện theo lời khuyên của ông Hồ.
Điều chính họ muốn nhắm tới trong phong trào “45 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh” là câu sau trong Di chúc của ông Hồ: “Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng.”[15] Nghĩa là đảng chỉ đâu thì
dân phải nhắm mắt tuân theo, như theo con đường Marx-Lenin và cúi đầu trước bá quyền Bắc kinh!
Nhưng
ở đây họ đã cố tình quên một nguyên tắc cực kỳ quan trọng trong sinh
hoạt của một quốc gia là, không một cá nhân nào dù đứng ở vị trị nào và
không một tổ chức nào có quyền áp đặt đất nước và nhân dân theo những
ước muốn riêng chủ quan và sai lầm. Cho nên cách làm hiện nay của những
người cầm đầu chế độ toàn trị, đứng đầu là Nguyễn Phú Trọng, trong phong
trào “45 năm thực hiện
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh” đã lại cho thấy sự lẫn lộn, sự cố
tình cầm nhầm quyền của toàn dân tộc với ước muốn riêng chủ quan của
một cá nhân hay một tổ chức. Điều này chỉ có thể xảy ra dưới chế độ
phong kiến và chế độ toàn trị: Quyền lực phát ra từ nòng súng!
Thông
thường, chính trị gia nào cũng muốn mớm lời cho lợi ích riêng của họ.
Nhưng khác biệt căn bản ở điểm, trong các xã hội Dân chủ đa nguyên mọi
chuyện đều phải minh bạch và hoạt động của các chính khách luôn luôn bị
theo dõi thường xuyên của các cơ quan công quyền độc lập
và của các tổ chức dân sự độc lập, nên họ không dám tẩy xóa hoặc xuyên
tạc các văn kiện quan trọng. Còn trong chế độ toàn trị độc đảng thì các
vua tập thể trong Bộ chính trị có quyền tuyệt đối, kể cả thủ tiêu đối
thủ, nên họ hầu như toàn quyền tẩy xóa và thêu dệt các văn kiện thế nào
có lợi nhất cho sự độc quyền của họ. Bắt dân phải “thực hiện Di chúc” Hồ
Chí Minh, nhưng chính họ đã phủ nhận lời hứa của Hồ Chí Minh trong
Tuyên ngôn Độc lập 2.9.1945, họ tự ý tẩy xóa và giải thích tùy tiện Di
chúc của Hồ Chí Minh theo lợi ích riêng và cũng không thực hiện các ước
nguyện cá nhân của Hồ Chí Minh, như đã trình bày.
Chẳng
những thế, họ còn đang bắt nhân dân phải trung thành với một đảng vẫn
đang mù quáng theo chủ nghĩa Marx-Lenin, mặc dầu chủ nghĩa này đã gây ra
bao nhiêu tang tóc và thiệt hại cho nhân dân! Họ còn phủ nhận một thực
tế là, gần ¼ thế kỷ Liên xô, cái nôi của Thế giới CS, đã tự sụp đổ và
các nước CS Đông Âu đã tan rã. Chính Nguyễn Phú Trọng cũng phải thừa
nhận, không biết bao giờ có thể thực hiện được chế độ CS ở VN! Một con
đường sai lầm không chỉ ở VN mà cả trên toàn thế giới, nhưng nhóm cầm
đầu toàn trị ở VN lại ngoan cố tiếp tục bắt cả dân tộc 90 triệu người cứ
nhắm mắt phải theo. Thật là ý muốn ngông cuồng và điên rồ của nhóm cầm
đầu
hiện nay vẫn tin rằng quyền lực phát ra từ nòng súng!
***
Nói
tóm lại, nhân dịp 69 năm cướp chính quyền áp đặt chế độ toàn trị, Bộ
chính trị, đứng đầu là Nguyễn Phú Trọng, hãy nghiêm túc trả lời công
khai với nhân dân ba câu hỏi:
-
Có nhìn nhận trong Tuyên ngôn Độc lập 2.9.1945 chính Hồ Chí Minh đã
thừa nhận các nguyên tắc Dân quyền và Nhân quyền, tức là nền tảng của
chế độ Dân chủ đa nguyên ngày nay?
- Hay thừa nhận lời hứa trên của Hồ Chí Minh chỉ là treo đầu dê bán thịt chó?
-
Chế độ toàn trị theo mô hình Marx-Lenin đã được áp đặt 69 năm ở VN,
đang đẩy đất nước tụt hậu về kinh tế so với hầu hết
các nước trong khu vực, nhân dân vẫn phải sống trong nghèo đói, lạc hậu
và không được hưởng các quyền tự do dân chủ căn bản. Trong khi ấy những
kẻ có quyền lực thì tham nhũng, đàn áp và tha hóa đạo đức. Chẳng những
thế, chế độ toàn trị còn đang xô đẩy đất nước vào lệ thuộc bá quyền Bắc
kinh!
Tình
hình cực kỳ bi đát trong mọi mặt và cả nguy cơ bị lệ thuộc phương Bắc
ai cũng biết, các Ủy viên Bộ chính trị còn biết rõ hơn. Vậy các người
cầm đầu chế độ toàn trị hiện nay, đứng đầu là Nguyễn Phú Trọng, còn có
quyền tiếp tục ôm lấy các ghế cao và ra
lệnh bắt 90 triệu nhân dân cứ phải tiếp tục cúi đầu vâng lệnh độc đoán
và mù quáng của các ông nữa chăng?
Ba câu hỏi cực kỳ quan trọng trên liên quan trực tiếp tới vấn đề căn bản là, quyền lực của ĐCS có còn chính đáng hay không?
Ở
đây tính tự trọng
và lòng thành thực
vừa là thử thách vừa là thước đo cho toàn thể Bộ chính trị, đứng đầu là
Nguyễn Phú Trọng. Nhân dân cả nước, kể cả những đảng viên tiến bộ, đang
theo dõi và sẽ có thái độ cương quyết trước những việc làm của các
ông!
2.9.2014
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen