Thứ ba, 24/06/2014, 08:05 (GMT+7)
(Biển Đảo) - Nhiều
học giả, nhà nghiên cứu có tên tuổi trên thế giới dự hội thảo quốc tế
“Hoàng Sa – Trường Sa: Sự thật lịch sử” tại Đà Nẵng đã phản bác luận
điệu của Trung Quốc liên quan đến “Công thư Phạm Văn Đồng 1958”
Biển Đông chưa bao giờ là lãnh thổ Trung Quốc
Theo GS
Carl Thayer (nguyên GS Học viện Quốc phòng Úc, chuyên gia về Việt Nam và
Đông Nam Á), Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS) không chấp
nhận yêu sách lịch sử hay sự biện minh lịch sử như là yếu tố quyết định
trong việc xác định chủ quyền đối với các cấu trúc biển và các vùng
biển.
Luật
pháp quốc tế hiện đại cũng không chấp nhận sự phát hiện mang tính lịch
sử đối với các đảo, tính gần gũi của các cấu trúc biển với đất liền, hay
việc bao gồm các cấu trúc biển đó trong những tấm bản đồ do quốc gia
phát hành, coi đó là bằng chứng đầy đủ để hỗ trợ cho một yêu sách chủ
quyền.
“Luật
pháp quốc tế đòi hỏi một quốc gia yêu sách chủ quyền phải chứng minh
việc chiếm hữu và quản lý liên tục” – GS Carl Thayer nhấn mạnh. Từ đó,
ông cùng nhiều học giả dự hội thảo đã khẳng định, nhà nước phong kiến
Việt Nam đã xác lập và thực thi chủ quyền hoà bình, liên tục đối với
Hoàng Sa và Trường Sa từ thế kỷ 17 – 18. Dưới thời thực dân, Pháp đã
nhân danh Việt Nam thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo này và khi
rút khỏi Việt Nam thì Pháp đã bàn giao lại quyền quản lý cho Việt Nam
Trong khi
đó, diễn giả Leszek Buszynski đến từ Trường An ninh quốc gia, Đại học
Quốc gia Úc nêu rõ: “Theo các quan điểm hiện đại trên thế giới, Biển
Đông chưa bao giờ là lãnh thổ của Trung Quốc. Đó là một khu vực ở rất xa
lục địa và thực sự không phải là một phần của đế chế Trung Quốc”.
“Việt Nam
đã chiếm hữu hiệu quả, lâu dài và thực thi chủ quyền hoà bình, liên tục
đối với Hoàng Sa, Trường Sa. Trung Quốc không có bất cứ bằng chứng
thuyết phục nào chứng minh họ chiếm hữu hai quần đảo này trước khi dùng
vũ lực đánh chiếm phi pháp Hoàng Sa năm 1974 và một số bãi ngầm thuộc
Trường Sa năm 1988” – GS Carl Thayer nhấn mạnh.
Nhà
nghiên cứu Jean-Pierre Ferrier (Đại học Paris 2, Pháp) cũng khẳng định:
“Nghiên cứu về lịch sử chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa cho thấy dưới góc
nhìn của luật pháp quốc tế, Trung Quốc chưa hề thực hiện “chiếm đóng
hiệu quả, liên tục và bình thường” cho tới sau cuộc tấn công và chiếm
đóng trái phép năm 1974. Việc chiếm đóng và triển khai quân sự của Trung
Quốc đã vi phạm luật pháp quốc tế (sử dụng vũ lực để giải quyết tranh
chấp), không thể hợp lý hóa việc Trung Quốc thay thế quyền chủ quyền của
Việt Nam đối với quần đảo này”.
“Nghị định thư cấp Tỉnh” năm 1921 hoàn toàn vô giá trị!
Jean-Pierre
Ferrier chỉ rõ: “Mặc dù chiếm đóng kéo dài đã 40 năm nhưng cơ sở của
việc chiếm đóng vẫn không có gì thay đổi và không có gì khác để hỗ trợ,
tăng cường hoặc thiết lập bất kỳ giả định nào về chủ quyền của Trung
Quốc!”. Bên cạnh đó, ông cũng nêu rõ: “Chiếm đóng quân sự là chưa đủ để
hợp thức hóa chủ quyền. Vẫn còn thiếu ít nhất một yếu tố thứ hai trong
việc xác minh chủ quyền bằng lịch sử và đó là sự nhận thức của công
chúng”.
Từ góc
nhìn này, Jean-Pierre Ferrier xác quyết: “Trung Quốc chưa bao giờ thực
hiện bất kỳ hành động chính thức nào đáp ứng theo quan điểm của luật
pháp quốc tế. “Nghị định thư cấp Tỉnh” năm 1921 là không đủ, bởi tác giả
không phải là chủ thể luật quốc tế; và nghị định này hoàn toàn mang mục
tiêu kinh tế (cấp phép khai thác phế thải chim biển, nguồn phốt pho
trên quần đảo – PV)!”.
Nhà nghiên cứu Jean-Pierre Ferrier (trái) trả lời báo chí trong khuôn khổ cuộc hội thảo
Theo
ông Jean-Pierre Ferrier, ngày 2/4/1921, Thống đốc Quân sự Quảng Đông ra
tuyên bố chủ quyền đối với Hoàng Sa khi ban hành nghị định về vấn đề
này trong Tạp chí chính thức của tỉnh. Ông cho rằng: “Nhà cầm quyền chỉ
định việc thiết lập chủ quyền của một hòn đảo cần có đủ thẩm quyền để
làm việc đó, và sau đó thì chủ quyền mới được thực thi”.
Từ đó
Jean-Pierre Ferrier đặt vấn đề: “Vì sao chúng ta không loại bỏ hoàn toàn
tuyên bố chủ quyền của Thống đốc Quân sự Quảng Đông khi ông ta ban hành
nghị định về vấn đề này trong Tạp chí chính thức của Tỉnh ngày
2/4/1921?”.
Nhà
nghiên cứu đến từ Đại học Paris 2 giải thích: “Ông ta tuyên bố việc sáp
nhập quần đảo Hoàng Sa vào đảo Hải Nam mà không có một cơ sở mang tính
hiệu lực nào (không có sự chiếm hữu của một “nhà đương cục” Tỉnh, mặc dù
có thể những ngư dân đảo Hải Nam, như ngư dân từ các nơi khác, đã đôi
lúc tạt vào vài giờ đồng hồ); hay cơ sở quốc tế nào (thể hiện qua việc
Quảng Đông không tồn tại trên bình diện quốc tế)!”.
Về “Công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958”
Theo
ông Jean-Pierre Ferrier, “đã không có một lời phản đối hay ủng hộ nào
từ cộng đồng quốc tế đối với Nghị định thư cấp Tỉnh 1921 của Thống đốc
Quân sự Quảng Đông, mà cho dù có thật sự diễn ra thì hành động đó có lẽ
cũng không tồn tại mục tiêu nhất định hay thu hút sự quan tâm rộng
rãi!”.
Từ sự
phân tích đó, trước những luận điệu bám vào “Công thư Phạm Văn Đồng
1958” để bịa ra việc Việt Nam bỏ Hoàng Sa và thừa nhận chủ quyền của
Trung Quốc đối với quần đảo này, Jean-Pierre Ferrier nói: “Vào thời điểm
đó và cho tới thời điểm thống nhất Việt Nam năm 1975, ông Phạm Văn Đồng
không có quyền tài phán nào đối với quần đảo Hoàng Sa, mà lúc đó trực
thuộc Đà Nẵng của Việt Nam Cộng hòa (VHCH).
GS Erik Franckx trả lời phỏng vấn Infonet khi xem triển lãm "Hoàng Sa –
Trường Sa: Phần lãnh thổ không thể tách rời của Việt Nam”
GS
Erik Franckx (Đại học Tự do Brussel – Bỉ; thành viên Tòa trọng tài
thường trực) tiếp tục nêu quan điểm về các “bằng chứng lịch sử”: “Bản đồ
rất quan trọng nhưng không có giá trị pháp lý cuối cùng và duy nhất nếu
nó không được đính kèm với những tài liệu ký kết giữa hai nước, các
quốc gia và các tổ chức quốc tế có liên quan. Nghĩa là một văn bản luật.
Còn nếu bản đồ chỉ đứng một mình, ví dụ như bản đồ do NXB này xuất bản
năm đó, năm kia cũng là những tư liệu, chứng cứ quan trọng nhưng không
phải có giá trị pháp lý cuối cùng”.
Tuy nhiên
khi PV Infonet đặt tiếp câu hỏi: “Vậy ông nhận định thế nào về “Công
thư Phạm Văn Đồng 1958”? thì GS Erik Franckx trả lời: “Cần
tìm hiểu và đọc công thư này một cách hết sức cẩn thận. Vì nội dung
chính của nó thực ra là nói về lãnh hải 12 hải lý mà Trung Quốc tuyên bố
chứ không phải là nói về vấn đề chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa. Do đó chúng ta nên diễn giải vấn đề theo tinh thần đó”.
Vai trò của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam
Trong
khi đó, GS Carl Thayer khẳng định “Bức thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng
gửi Trung Quốc không đề cập tới Hoàng Sa hay Trường Sa, cũng như không
hề thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa. Năm
1958, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) vẫn hy vọng thống nhất Việt Nam
theo các điều khoản chính trị của Hiệp định Geneva 1954, còn VNCH duy
trì sự hiện diện liên tục ở nhóm Nguyệt Thiềm (thuộc quần đảo Hoàng Sa)
từ năm 1956 tới tháng 1/1974”.
Ông nhắc
lại “sự phản đối của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt
Nam (PRG) ngay sau khi Trung Quốc chiếm quần đảo Hoàng Sa và sau đó
(ngày 26/1 và 14/2/1974), PRG không những là một bên ký Hiệp định hòa
bình Paris mà trước khi Việt Nam chính thức thống nhất năm 1975 thì PRG
là người đứng đơn cùng với VNDCCH tham gia và trở thành thành viên của
Liên hợp quốc. Sau khi thống nhất, Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
trở thành quốc gia kế thừa và tiếp tục chính sách của PRG liên quan đến
biển Đông”.
HẢI CHÂU (Theo Infonet)
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen