TIẾN SĨ CẦU MUỐI
* ĐINH LÂM THANH *
Ghi chú : Bài ‘Tiến Sĩ Cầu
Muối’ viết từ năm 2008, nhiều Nhật Báo, Nguyệt San cũng như các Diễn Đàn đã đăng
trong nhiều năm qua. Hôm nay xin phép Quý Độc Giả post lại vì cách
đây không lâu có hai người gởi mail đến hỏi như sau :
Người thứ nhất, với bí danh
và gởi từ trong nước (hai chữ ‘vn’ nằm sau cùng trên địa chỉ mail). Sau một đoạn
dài xỉ vả người viết rồi đến kết luận bằng câu sau : ‘Đị… mẹ mầy, có ăn học ở
nước ngoài sao ngu vậy ? Đị…mẹ, Việt Nam nàm gì có trường Đại Học Cầu Muối’ !
Với câu hỏi nầy, xin khỏi trả lời vì người nầy đã xuất thân từ trường Cầu Muối
mà không hay biết về cái gốc văn hóa của mình.
Người thứ hai, là một bạn
trẻ ở nước ngoài, ngây thơ hỏi rằng ‘Tại Việt Nam có trường
Đại Học Cầu Muối ?
Xin bác cho biết trường nầy ở đâu ? Cháu đã hỏi một người trong gia đình
thì họ cũng xác nhận Việt Nam không có trường Đại Học nào gọi là Cầu Muối’. Xin
trả lời bạn trẻ như sau : ‘tại Sàigòn có một khu chợ gọi tên là Chợ Cầu Muối,
nơi cung cấp hàng sĩ đến từ các tỉnh và hoạt động ban đêm. Đây
cũng là nơi tập trung côn đồ du đảng, cướp giật, trộm cắp. Tác giả bài viết đã
dựng lên trong khu chợ nầy một trường Đại Học (còn gọi là Học Đại) để cho bọn
đảng viên quan quyền nhà nước cộng sản đến đó mua bằng Tiến Sĩ….) ĐLT
***
Nhà Nước Việt Nam sẽ cho
sản xuất 20.000 tiến sĩ trong vòng 10 năm tới, nghĩa là mỗi năm cho ra lò 2000
tiến sĩ, trong lúc đó, đầu niên khóa 2007 có 114.000 học sinh bỏ học (Tựa đề
đăng trên báo Lao Động, cơ quan ngôn luận chính thức của nhà cầm quyền cộng sản
Việt Nam số 11 ra ngày 16.3.2008, cập nhật lúc 7:49 AM)
Bản tin trên cho chúng ta thấy
việc đào tạo nhân tài dưới chế độ cộng sản Việt Nam giống như chương trình
nuôi heo nái, sản xuất đúng theo ‘chỉ tiêu’ của nhà nước !
Tính theo kế hoạch mỗi ngày, kể cả thứ bảy chủ nhật, nhà nước phải liên
tục đẻ ra 6 ông bà tiến sĩ từ đây cho đến năm 2018 !
Bày trò dỗm của ‘cái đỉnh cao
trí tuệ loài người’ để cho thế giới nhìn vào chương trình giáo dục của những đầu
óc siêu việt xuất xứ từ rừng xanh. Giờ phút nầy, tiến sĩ đã đầy đường, ngồi chật
quán café mà chẳng làm được tích sự gì cho dân tộc đất nước. Mai đây đẻ thêm
20.000 người nữa thì chỉ còn nước đóng hộp xuất khẩu làm nô lệ tại Phi Châu
!
Tiến sĩ cán bộ đảng viên nhà
nước tại Việt Nam toàn là một loại tiến sĩ dỗm. Có ông chưa viết nổi một bức thư
tình hoặc chưa thông suốt được bốn phép tính cộng trừ nhân chia. Đất nước Việt
Nam đã bị phá sản bởi những ông bà tiến sĩ ngồi đầy trong guồng máy nhà nước
nhưng chẳng làm được tích sự gì, bây giờ đẻ thêm từng loạt để làm gì ? Đảng cộng
sản bị mặc cảm dốt chữ lại ngồi trên đầu trên cổ 80 triệu dân, do đó nhà nước đã
ưu ái ban đặc ân cho cán bộ được học nhảy, học vọt, học thuê và
mua bằng thật dễ dàng hầu đáp ứng nhu cầu nhân sự. Mới đây nhà nước ra
lệnh cho những giám đốc xí nghiệp phải có bằng đại học, các tay lãnh đạo cấp cao
phải có bằng tiến sĩ. Thế là tất cả đều ghi danh đi học bổ túc, lớp ngày, lớp
đêm và nhanh tay…mua bằng !
Có nhiều loại bằng tiến sĩ tại
Việt Nam là bằng chạy, bằng mua, bằng thuê và bằng lệnh ! Bằng mua là loại bằng
thông dụng tại Việt Nam mà chúng ta đã nghe nói đến rất nhiều. Ai có tiền cũng
có thể mua loại bằng nầy, do đó, cán bộ gộc nhà nước và con ông cháu cha mua
thẳng với bộ giáo dục. Bằng thuê là thuê người đi thi giùm. Báo chí tại Việt Nam
đã tiết lộ nhiều tên trong ngụy quyền cộng sản không cần đến lớp, tài xế đi thế
và ngày thi thì thuê sinh viên ! Loại bằng sau cùng là bằng lệnh ! Các quan lớn
đâu cần mất thời giờ ghi danh, lên giảng đường và đi thi…chỉ cần ra lệnh thì học
vị nào cũng có và bằng nào cũng được cấp dưới đem dâng tận văn phòng.
Theo tài liệu của ngụy quyền
cộng sản, cuối năm 2005 Việt Nam có 8300 tiến sĩ, trong đó sáu mươi phần trăm
thuộc ngành khoa học kỹ thuật và gần ba mươi phần trăm tốt nghiệp kinh tế thương
mãi v.v…Số lượng đông đảo nầy làm gì mà cống nước hư, sông lạch nhiễm độc, gà
vịt heo bò chết không giải quyết mà cứ kêu gào chất xám người Việt hải ngoại !
Hàng trăm tiến sĩ giáo sư trong các cơ quan nhà nước không làm nổi chương trình
ổn định kinh tế hay một kế hoạch phát triển thị trường mà phải cầu cạnh nước
ngoài ? Tại Việt Nam, sinh viên nghèo, hiếu học dù giỏi đến đâu cũng không dám
mơ ước tấm bằng tiến sĩ. Thành phần nầy không có khả năng tài chánh cũng như
quyền lực để mua hay trình luận án…Quota các loại bằng tiến sĩ đã được cán bộ,
con ông cháu cha ghi tên sẵn, do đó hàng năm cộng sản Việt Nam cho ra lò những
ông bà tiến sĩ giấy để lòe thiên hạ. Bệnh thời đại của mấy người vừa lột xác nầy
là những tấm danh thiếp, gặp ai cũng dúi vào tay những miếng carton nhỏ, vừa
thoáng qua đã thấy chóng mặt với bằng cấp và chức vụ !
Có người bạn thường về Việt
Nam, cách đây trên mười năm, kể chuyện lấy bằng tiến sĩ một cách thần thánh của
tên cán bộ cấp trung tại Cần Thơ như sau. Bạn tôi cho biết ông quen với một đảng
viên gốc người Nam làm việc trong ty thể dục thể thao tỉnh Hậu Giang. Ngoài các
bài chính trị thuộc lòng, chữ nghĩa lời ăn tiếng nói của anh cán bộ nầy không
thoát ra khỏi hàng rào của giới bình dân miệt vườn. Thế nhưng sau 3 tháng gặp
lại, ông ta mời bạn tôi một chầu nhậu tới bến tại nhà hàng international ở bến
Ninh Kiều. Lý do là anh vừa đậu ưu hạng tiến sĩ !
Viết đến đây tôi nhớ lại một
tờ bích chương giới thiệu các nhân vật được Mặt Trận Tổ Quốc đưa ra ứng cử đại
biểu quốc hội tại Sàigòn, trong đó tất cả mọi người đều mang học vị tiến sĩ :
Ông Sư, tiến sĩ Giáo lý Phật giáo. Ông Cha, tiến sĩ Thần học Công giáo. Anh làm
vườn, tiến sĩ canh nông. Chị nhân công nhà máy, tiến sĩ kỹ thuật. Tên đảng viên
Cộng sản, tiến sĩ triết lý Max-Lê…đúng là tiến sĩ đi đầy đường đầy chợ, bát nháo
loạn như cào cào. Hoạt cảnh nầy chứng minh cho thấy cái ngu của mấy tay mới giàu
học làm sang thường gọi là đỉnh cao trí tuệ rồi tuyên truyền ra thế giới bên
ngoài trình độ văn hoá ưu việt của Xã Hôi Chủ Nghĩa !
Tôi nhớ lúc còn làm việc trong
ngành thương mãi, thời đó cộng sản Việt Nam chưa gắn cho tôi cái tên ‘cực kỳ
phản động’ mà chỉ biết là một người gốc Việt Nam mang tên nửa Pháp nửa Việt, là
chủ tịch của một công ty nặc danh về thương mãi quốc tế. Qua một trung gian uy
tín từ một văn phòng ngoại quốc, VN đề nghị gặp tôi để giúp VN vài hồ sơ vay
tiền quốc tế. Tôi đồng ý lợi dụng việc nầy để may ra thu thập được một vài tài
liệu cần thiết về việc tham nhũng của tập đoàn cộng sản. Đến ngày hẹn, phái đoàn
Việt Nam tới Paris nhưng họ đề nghị thay đổi địa điểm họp đến ba lần vào phút
cuối. Rốt cuộc hai bên chấp thuận trong một khách sạn lớn ở Versailles. Đoàn
Việt Nam gồm 5 người, ngoài trung gian ra, nhân vật chính là một thanh niên
khoảng 40 tuổi, hai công an vóc dáng to lớn đóng vai vệ sĩ và một người lớn tuổi
cuối cùng được giới thiệu ngắn gọn là nhân vật quyết định tất cả chương trình
trong chuyến đi. Cả bốn người từ Việt Nam qua đều xác nhận sứ quán Việt cộng tại
Paris không hay biết gì vấn đề nầy. Sau phần giới thiệu ngắn gọn của người trung
gian, nhân vật đóng vai chính vừa trình danh thiếp vừa tự giới thiệu tên mình là
NVA, tiến sĩ kinh tế học, tiền sĩ ngân hàng đã từng tu nghiệp ở Liên Sô, hiện
giữ chức vụ cố vấn kinh tế và ngân hàng của bộ chính trị trung ương đảng cũng
như nhà nước (thủ tướng và chủ tịch nước). Nhìn vào tấm danh thiếp tôi còn thấy
cả chục bằng cấp và chức vụ khác nhau. Tôi không ngạc nhiên vì đã biết thói dao
to búa lớn của cán bộ cộng sản nhưng chỉ lo vì đang đối diện với hai tên công
an. Buổi gặp gở đầu tiên họ không đi vào chi tiết và cũng không hỏi nhiều về cá
nhân tôi nhưng những lời nói của hai bên đều được vệ sĩ lén thu âm và xin phép
chụp hình chung để lưu niệm ! Sau vài lời nói úp mở, tôi đoán chừng mục đích của
buổi họp là nhà nước, qua ông NVA, muốn nhờ công ty của tôi đứng ra làm trung
gian vay tiền quốc tế không có lời và trả chậm theo chương trình cứu đói giảm
nghèo và xây dựng đất nước sau thời chiến. Nhưng đây chỉ là bình phong để nhận
tiền viện trợ và bồi thường ngầm rồi tìm cách tẩu tán ở nước ngoài. Tôi không đi
thẳng vào vấn đề mà hướng câu chuyện chung quanh việc tốt nghiệp của ông A. cũng
như thời gian tu nghiệp tại Liên Sô. Trước những câu hỏi của tôi về căn bản thủ
tục, nguyên tắc và pháp lý đối với một hồ sơ vay mượn quốc tế thì ông A né tránh
và không trả lời thẳng vấn đề mà chỉ lanh quanh vào mớ kiến thức kinh tế theo
thuyết Max-Lê. Cuối cùng ông A. thú thật rằng, đậu tiến sĩ theo chương trình bổ
túc dành riêng cho cán bộ ! Những điều tôi đặt ra ông chỉ nghe loáng thoáng chứ
chưa đi sâu vào bao giờ !
Thực ra mục đích buổi họp đầu
tiên để hai bên xem cẳng xem giò nhau, chưa đi vào vấn đề chính. Nhưng trước khi
ra về, ông A đề nghị riêng với tôi một buổi gặp gỡ khác vào ngày mai và chỉ có
hai người. Tôi chấp thuận nhưng lần nầy chính tôi quyết định nơi họp. Ông ta
đồng ý.
Cũng vào phút chót chính tôi
lại thay đổi địa chỉ trước chừng nửa giờ và hẹn gặp nhau tại phòng họp đặc biệt
trong một khách sạn tại Paris 16. Họ đến 4 người, không có trung gian, nhưng tất
cả đều phải ở ngoài, dùng bánh uống café trước lối ra vào. Sau khi khép kín cửa,
ông A xác nhận ông được lệnh ra nước ngoài để gặp tôi nhờ đứng trung gian các hồ
sơ vay tiền. Trả lời câu hỏi của tôi, ông A. cho biết chính hai tập đoàn tài
chánh của Anh và Mỹ có văn phòng tại Hà Nội giới thiệu tôi và chính phủ muốn qua
trung gian công ty của một người Việt Nam chứ không muốn người ngoại quốc biết
quá nhiều về việc nầy. Chương trình vay mượn dài hạn là hồ sơ ngụy trang những
số tiền sẽ bí mật chuyển thẳng vào các trương mục của các nhà lãnh đạo cộng sản
Việt Nam ở nước ngoài ! Nhớ lại câu chuyện, bây giờ tôi mới khám phá ra rằng chế
độ cộng sản đào tạo tiến sĩ dỗm cho nội bộ đảng không ngoài mục đích đánh bóng
chế độ mà còn có nhiệm vụ kiếm đường giây chuyển tiền ăn cắp ra xứ ngoài. Kết
quả qua vài lần hẹn hò trao đổi, tôi có trong tay bằng chứng thú tội của cán bộ
tên A nầy xác nhận rằng, hiện có khoảng 30 tỷ dollars đang cần tìm cách chuyển
dần vào các trương mục của các tên lãnh đạo. Chuyện nầy còn dài tôi không muốn
đi ra ngoài đề tài bài viết hôm nay, xin hẹn trong một bài khác.
Sở dĩ tôi hơi dài giòng chuyện
nầy cũng không ngoài mục đích kể lại chuyện gặp gở, đối thoại trực tiếp với một
cán bộ cao cấp có hai bằng tiến sĩ !!!
Trình độ văn minh của một quốc
gia có thể hình dung dưới hai khía cạnh giáo dục và y tế. Y tế mạnh thì bệnh tật
sẽ giảm thiểu, giáo dục phát triển thì cửa nhà tù đóng bớt. Nhưng với Việt Nam,
hai vấn đề trọng đại nầy đều đứng cuối bảng theo phân loại và xếp hạng của các
cơ quan quốc tế. Nhìn chung ở các xứ Âu-Mỹ, trẻ con bắt buộc đến trường, nếu vì
một lý do gì bất khả kháng thì có người đến dạy tại nhà. Tất cả chi phí từ tiền
trường, sách vở bút mục, cho đến việc mua sắm áo quần trong ngày tựu trường đều
được chính phủ đài thọ. Trong lúc tại Việt Nam, trẻ em vừa bước chân đến mẫu
giáo đã phải đóng đủ thứ tiền : từ học phí cũng như lệ phí chính thức đến vô
danh đều đổ lên đầu phụ huynh. Cứ tính tổng cộng tất cả phí cho nhà nước, nhà
trường và thầy cô thì số tiền đã vược đồng lương của một công nhân hạng thấp.
Khả năng đâu để cha mẹ cho con đến trường ? Điều nầy không đáng ngạc nhiên khi
số học sinh tiểu học càng ngày càng giảm so với tổng số trẻ em đến tuổi phải cắp
sách đến trường. Người nào không qua được ngưỡng cửa tiểu học xem như mù chữ so
với đà văn minh hiện nay.
Những ai thường về Việt Nam
nên để ý xem, ngay tại khu bình dân của thủ đô Hà Nội, Sàigòn hay các thành phố
lớn có bao nhiêu em thất học sống bằng nghề bán báo, đánh giày, ăn xin hay móc
túi ? Đi xa thêm một chút, các quận nội ngoại thành phố hay ra các vùng quê xa
xôi hẻo lánh để thấy con số tăng lên một cách khủng khiếp. Nhà cầm quyền cộng
sản không nghĩ đến tương lai những thành phần cô thế nghèo đói nầy. Họ chú tâm
chăm sóc cho trẻ con gốc cán bộ, thành phần tỷ phú đỏ hay dân thành phố có tiền
mà du khách thường thấy trong các trường kiểu mẫu với áo quần đồng phục, bữa ăn
căn-tin trình diễn.
Kinh nghiệm cho thấy đa số
nhân tài đều phát xuất trong giới nghèo đói bình dân, ít khi thấy từ đám công
cháu cha. Đúng vậy, đa số con ông cháu cha thời nào cũng có thể xem là những con
sâu của xã hội. Thời trước đi Tây đi Mỹ phần nhiều lấy được bằng nhảy đầm, và
toàn bộ con ông cháu cha thời nay dưới chế độ cộng sản thì trở thành những nhà
trí thức nhờ bằng mua, bằng thuê (thuê người đi thi), hay bằng chạy (chọt).
Tương lai đất nước sẽ rơi vào những tay trí thức dòi bọ nầy là một đại họa cho
tổ quốc và dân tộc.
Bản tin của báo Lao Động nêu ở
phần trên cho biết con số chính xác là 114.000 học sinh đã bỏ học vào đầu niên
khóa 2007. Trên một trăm ngàn học sinh nầy chữ nghĩa chưa đi đến đâu, bằng cấp
không có, lớn lên thầy không ra thầy, thợ không ra thợ. Họ sẽ trở thành những
người thợ vịn (phụ), những công nhân bất đắc dĩ rồi trước sau gì cũng phải đóng
tiền cho nhà nước để được xuất khẩu làm phu khuân vác hay làm vợ người trên thế
giới. Thử tính trong vòng 10 năm nữa, con số thanh niên nam nữ nầy đi làm đĩ và
nô lệ lao động trên khắp thế giới thì con số sẽ lên đến bao nhiêu người ? 20.000
tiến sĩ do nhà nước đẻ ra trong 10 năm thì cũng có trên 2 triệu học sinh bỏ học
vì không có phương tiện đến trường ! Ngụy quyền cộng sản còn phải mở thêm hàng
ngàn trại cải tạo để giam giữ thành phần bất mãn nầy hay lại bán rẻ lao động ra
xứ ngoài để giải quyết nạn thất nghiệp, du đảng, trộm cướp…
Kết quả học sinh trúng tuyển
phổ thông cấp II (xem như tú tài) hàng năm lên đến cả trăm ngàn người trong lúc
trường đào tạo chuyên viên đại học đã thiếu và quá yếu kém trong lãnh vực chuyên
môn. Tổ chức thi tuyển vào đại học chuyên nghiệp là một lối làm tiền của nhà
nước và cán bộ giáo dục vì một số quota đã đặc biệt dành sẵn cho con ông cháu
cha và bán cho con cháu dòng họ tỷ phú đỏ. Con cháu người nghèo, cô thế dù khả
năng đến đâu cũng đừng hòng đặt chân vào đây. Ngay những trường không thu hút
sinh viên như luật, văn…vẫn không đủ chỗ cho hàng ngàn đơn xin.
Ngụy quyền cộng sản có kế
hoạch nào để giải quyết sự ối đọng nhu cầu dồn dập từ năm nầy qua năm khác, hay
chỉ có một con đường duy nhất là biến khối nhân lực nầy thành nô lệ và rao bán
cho những tên già Trung Hoa, Đài Loan mua về làm vợ bé ? Hành động đóng thùng
xuất khẩu đàn bà con gái cho các ổ điếm ngoại quốc là một trò khốn nạn hơn cả
loài thú mà nhân loại đã khám phá ra dưới sự lãnh đạo anh minh của đảng cộng sản
Việt Nam.
Trở lại vấn đề đào tạo nhân
tài : Việt Nam có 7 trường đại học được xếp vào hạng lớn nhưng cả 7 đều bị liệt
vào hạng chót so với các trường đại học trong vùng Đông Nam Á.
Câu hỏi được đặt ra, tại sao
trí thức do cộng sản đào tạo ra không đủ tiêu chuẩn, hay nói đúng hơn, không có
khả năng chuyên môn nghề nghiệp mặc dù thanh niên Việt Nam rất thông minh. Câu
trả lời cũng đơn giản nằm trong ba điểm then chốt sau :
- Thành phần giáo sư quá kém,
chẳng những không đủ khả năng đảm trách môn dạy của họ mà còn thiếu sót bổn phận
và trách nhiệm của nhà giáo. Giáo sư tốt nghiệp trong nước thì chẳng hơn gì sinh
viên, hơn nữa với đồng lương chết đói giáo sư phải tìm cách kiếm tiền bằng nghề
tay trái. Đàng hoàng thì dạy lớp đêm, phụ vợ bán hàng hoặc chạy xe ôm, lưu manh
thì bán bài học, bán đề thi cuối năm hoặc bắt mối với hội đồng chấm
điểm.
- Cộng sản xử dụng trường học
làm lò đào tạo chính trị trong tất cả phân khoa ngành nghề. Chương trình nhồi sọ
về thuyết duy vật, lịch sử oai hùng của đảng và thần tượng già Hồ chiếm phần lớn
trong chương trình giảng dạy. Một luận án ra trường hay, mới, thiết thực nhưng
điểm chính trị thấp vẫn bị đánh rớt. Muốn đậu, điều tốt nhất là thí sinh phải
hót phải nói thật hay những gì nhà nước đã nhồi sọ trong các trường đại
học.
- Tuyển chọn sinh viên và chấm
điểm ra trường tùy thuộc vào quyền lực, vai vế và tiền bạc. Điều nầy cho thấy
thành phần tốt nghiệp đại đa số là thành phần con ông cháu cha, tức là cặn bả
của xã hội !
Có thể kết luận, cộng sản Việt
Nam đã biến học đường thành lò đào tạo những con két đỏ, đầu chứa phân và miệng
chỉ biết líu lo ca tụng chế độ. Nói về cán bộ cao cấp của nhà nước, khi chúng
‘tậu’ được bằng tiến sĩ thì xem như tốt nghiệp chui tại trường ‘Học Đại’ Cầu
Muối !
Đinh Lâm Thanh
Paris, 2008
* Trích trong ‘MỘT ĐỜI XÓT
XA’, ISBN 978-1-60643-652-3, Xuất bản và phát hành tại Hoa Kỳ tháng 6
năm 2008.
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen