THIỀN
SƯ TUỆ SỸ LÊN
TIẾNG
TRÍ THỨC PHẢI NÓI
Kính thưa quí
vị,
Hân hạnh gửi đến quý vị một vài ý nghĩa phiến diện
về những điều đè nặng tâm trí tôi trong suốt thời gian ở tù. Nhưng điều trước
tiên tôi muốn bày tỏ ở đây là sự tri ân của tôi đối với đồng bào hải ngoại, với
sự cộng tác của quốc tế, đã can thiệp một cách có hiệu quả khiến cho bản án tử
hình dành cho tôi trở thành bản cáo trạng dành cho những người tự cho có quyền
xét xử tôi và phán xét những người đã hành động theo lương tâm. Tiếp theo, sự
can thiệp đã khiến cho Nhà Nước Cộng Sản Việt nam phải tuyên bố trả tự do cho
tôi, nhưng nhiều người bạn tù của tôi vẫn còn bị khổ trong các trại tù. Trong số
đó có nhiều người bị giam cầm gần 25 năm, vượt quá thời hạn mà luật Hình sự của
Nhà nướcViệt Nam quy định đối với việc thi hành các bản án giam giữ có thời
hạn.
Ở đây, tôi cũng xin bầy tỏ sự cảm kích sâu xa đối
với các cộng đồng Việt Nam hải ngoại đang đấu tranh cho một nước Việt Nam trong
sáng và tự do. Tôi cũng xin gởi lời cảm ơn đến các nhân sĩ Hòa Lan, trong tình
cảm nhân loại đã trực tiếp can thiệp với chính phủ Việt Nam cho tôi được sang
thăm viếng đất nước Hòa Lan, để có thể có điều kiện tự do hơn nói lên tiếng nói
thầm lặng mà đã một phần tư thế kỷ bị bóp nghẹt.
Trong những năm gần đây, trước cả khi tôi được
lịnh phải rời khỏi nhà tù để trở về chùa, có rất nhiều đồng bào ta từ nước ngoài
về thăm và càng ngày càng chứng kiến những đổi thay được nói là đáng khích lệ.
Khích lệ theo chiều hướng nào, còn tùy theo cách nhìn mỗi người. Riêng tôi, tôi
không có được may mắn là chứng nhân trực tiếp trước những thay đổi của đất nước,
mặc dù tôi đang sống trong lòng quê Cha đất Tổ. Đó là điều tốt hay xấu, cũng còn
tùy cách nhìn của mỗi người.
Mặc dù không có cái may như nhiều đồng bào sau khi
sống tự do 15, 20 năm ở nước ngoài về thăm quê, thấy được những đổi thay từ trên
thượng tầng, thấy được sự giầu sang của đất nước qua những tiện nghi vật chất từ
các khách sạn năm sao dành cho cán bộ cao cấp và khách nước ngoài, từ những tiếp
đón niềm nở và linh đình của những nhân vật thuộc thượng tầng xã hội, với những
đặc quyền xã hội mà điều kiện chính trị dành cho, nhưng tôi có cái "may mắn"
khác - nếu cho đó là may mắn - được sống chung trong một thời gian rất dài với
thành phần được xem là "cặn bã" của xã hội. Chính từ xã hội gọi là cặn bã ấy tôi
đã chứng kiến những đổi thay trong nhà tù như là ảnh chiếu của những "đổi thay
to lớn" của đất nước. Sự chứng kiến đơn giản và dễ hiểu thôi
Cũng như người ta chỉ cần nhìn vào rác rưởi phế
thải được dồn ra sân sau mà có thể biết những thứ đã được tiêu thụ ở sân trước.
Chúng tôi, một số người từ lâu đã được học tập để thành thói quen suy nghĩ số
phận dân tộc từ những đống rác, đã tự mình đặt thành nhiều câu hỏi cho lương tâm
nhân loại, cho ý nghĩa tiến bộ của xã hội loài người, và trên tất cả là một câu
hỏi lịch sử: "Đất nước đã thấm bao nhiêu xương máu của bao nhiêu thế hệ ông
cha và bè bạn để dồn lại thành những đống rác như thế, những đống rác càng ngày
càng to phình lên một cách khủng khiếp".
Việt Nam đang là
một đống rác khổng lồ. Đó không phải là ý nghĩ riêng của tôi, mà là nhận
xét của nhân vật cao cấp nhất của đảng Cộng Sản Việt Nam. Đây không phải là ý
nghĩa kinh tế. Nó bao trùm tất cả mọi khía cạnh đời sống: văn hóa, chính trị, và
cả tôn giáo. Vậy thì, một câu hỏi cần phải được đặt ra cho những ai còn có chút
tự trọng dân tộc: Tại sao một dân tộc luôn luôn tự hào với truyền thống bốn
nghìn năm văn hiến, bỗng nhiên để cho đất nước mình trở thành một đống rác, kho
chứa tất cả những gì xấu xa nhất của nhân loại văn minh? Nguyên nhân từ đâu và
do ai?
Trong gần mười lăm năm trong tù, điệp khúc tôi
phải thường xuyên học tập để ca ngợi tính can đảm của đảng Cộng Sản Việt Nam:
"Cán bộ làm sai, đảng tri... Đảng làm sai, đảng sửa." Tôi cũng thường
xuyên trả lời: Đó không phải là sự can đảm, mà là thái độ cai trị khinh
dân; xem dân như là vật thí nghiệm cho những tư duy không tưởng, học
thuyết viễn vông của mình.
Tôi cũng thường xuyên bị học tập rằng, chính
sách đoàn kết dân tộc của đảng là làm cho "dân tin đảng và đảng tin
dân." Tôi cũng thường xuyên trả lời: làm cho dân tin đảng; đó là điều tất
nhiên và dễ hiểu thôi vì có đáng tin thì người ta mới tin được; vì đảng cần được
dân tin tưởng để tồn tại, dù chỉ là tin tưởng giả tạo. Nhưng "dân tin đảng" có
nghĩa là thế nào? Nếu đảng không tin dân thì đảng xử lý dân như thế nào? Câu trả
lời thực tế: Cả nước trở thành một nhà tù vĩ
đại.
Ngày nay, khi không còn ở trong nhà tù nhỏ như
mười lăm năm trước nữa, tôi không còn có điều kiện để được lên lớp chính tri.
Tôi hy vọng đảng Cộng Sản Việt Nam không còn có cái can đảm như xưa, để thử
nghiệm học thuyết của mình thêm nhiều lần nữa; và cũng không thi hành chính sách
"đại đoàn kết" như xưa, để dân có thể sống tự tại mà không bị đảng nghi
ngờ.
Mặc dù có những thay đổi lớn nhìn từ góc độ nào
đó, nhưng thực tế tôi biết chắc rằng có một điều không thay đổi. Đó là:
"đảng Cộng Sản vẫn tự coi mình là ân nhân của dân tộc và do đó có độc
quyền quyết định số phận của dân tộc"(mà là ân nhân hay tội đồ gì thì
quần chúng và lịch sử trước mặt sẽ phán xét). Đó là điểm khác biệt với các chế
độ chuyên chính lừng danh trong lịch sử.
Đây cũng chính là nguyên nhân của một trong những
điều mà các đảng viên bảo thủ cho là "rác rưới tư bản". Điều đó là nạn
tham nhũng. Bởi vì, quan liêu, hách dịch, thái độ kẻ cả ban ơn, vừa là bản
chất và vừa là dưỡng chất của tệ nạn tham nhũng của Việt Nam hiện
nay.
Mọi tội phạm xảy ra đều do một bên gây hại và một
bên bị hại. Trong tham nhũng, mới nhìn thì không có ai bị hại một cách rõ ràng.
Trước mắt, người đưa hối lộ và người nhận hối lộ đều nhận được những điều lợi
nhất định.
Như vậy người bị hại chính là quần chúng, không đủ
đặc quyền để tham gia nhằm hưởng lợi trực tiếp từ nạn tham nhũng. Nghĩa là những
thành phần cùng khốn của xã hội chẳng có gì để cho, nên chẳng nhận được gì, vì
vậy họ trở thành nạn nhân. Tính cá biệt của nạn nhân tham nhũng ở Việt Nam hiện
tại là
do thái độ ban ơn của những kẻ có chức
quyền đối với "thần dân" dưới sự cai trị của mình.
Tham nhũng ở Việt Nam không chỉ là thỏa thuận song
phương để dành những hợp đồng kinh tế béo bở. Nó bòn rút xương tủy của nhân dân;
những người cùng khốn phải còng lưng lao động để có tiền đóng
thuế.
Tham nhũng là gốc rễ của các tệ nạn xã hội khác.
Vì nó tổ chức bao che và nuôi dưỡng chung. Nó xói mòn mọi giá trị đạo đức truyền
thống. Bảo vệ hay phát huy văn hóa dân tộc trên cơ sở đó chỉ là lá chắn cho tệ
nạn tràn lan mà thôi.
Tôi nói, tham nhũng là sân sau của quyền lực. Bởi
vì chính những người dân cùng khốn, là tiếng nói luôn luôn bị áp chế bằng sự dọa
nạt, là những người bị trấn áp bởi bạo quyền chuyên chính khốc liệt nhất, nhưng
cũng lặng lẽ chịu đựng nhất. Đó là những chứng nhân cho mặt trái của tham nhũng
và quyền lực; nạn nhân trực tiếp của tất cả sự áp chế của nó đối với giá trị
nhân phẩm.
Có lẽ tôi muốn kể lại đây một câu chuyện thương
tâm, để chúng ta hiểu phần nào bản chất tham nhũng trong một chế độ thường tự
hào là không có người bóc lột người. Chuyện xảy ra trong trận lụt vào cuối năm
vừa qua.
Tại xã Hương Thọ huyện Hương Trà tỉnh Thừa Thiên
có một gia đình nghèo khổ sống lênh đênh trên một chiếc đò. Khi cơn lụt ập đến,
gia đình này là duy nhất có ghe ở địa phương miền núi này, do đó đã vớt được
trên 80 người khỏi cảnh chết chìm. Sau nước rút, thỉnh thoảng có vài phái đoàn
đến cứu trợ.
Các gia đình khác đều nhận được cứu trợ. Chỉ trừ
gia đình anh. Lý do:không có hộ khẩu, vì lâu nay gia đình này nghèo quá,
phải sống "vô gia cư" phiêu bạt trên các sông suối nên không có hộ khẩu thường
trú. Dân làng biết ơn anh, xin chính quyền địa phương cấp hộ khẩu cho.
Nhưng thiếu điều kiện nhập hộ: gia đình anh không có đủ 400,000 đồng VN để hối
lộ. Khi các thầy của tôi lên cứu trợ, dân làng tự động đến tường thuật
sự việc để các thầy giúp đỡ. Các thầy giúp đủ số tiền, nhưng với điều kiện
phải giấu kín nguồn gốc. Vì sẽ còn nhiều vấn đề rắc rối
khác.
Điều tôi muốn nói ở đây không phải nhắm đến tệ nạn
tham nhũng. Mà là nhân cách của gia đình nghèo khốn ấy; và thái độ chịu đựng sự
bất công một cách thầm lặng đáng kính phục. Dù sống dưới mức tận cùng khốn khổ,
anh vẫn giữ vẹn giá trị nhân phẩm của mình. Làm ơn cho nhiều người, nhưng không
kể ơn để được đền bù. Chỉ có dân làng biết ơn và tự động đền đáp. Nhưng dân ai
cũng nghèo khổ và lại gặp hoạn nạn như nhau, lấy gì chu cấp cho
nhau?
Khắp cả đất nước này, có bao nhiêu trường hợp như
vậy. Đó là những cuộc sống ở sân sau của quyền lực, sống trong bóng tối của xã
hội. Nếu họ không lên tiếng, ai biết họ ở đây. Nhưng họ lại không lên tiếng. Vì
không thể, hay vì không muốn? Do cả hai. Điều mà quý vị biết rõ là tôi đang nói
chuyện ở đây cũng chỉ là cách nói "lén lút qua mặt chính quyền." Tôi
chưa biết ngày mai của tôi ra sao, khi những điều tôi nói không làm hài lòng
Đảng và Nhà nước.
Hoàn cảnh đất nước Việt Nam như thế cho nên dân
ta phải chịu quá nhiều đau thương và tủi nhục. Đối với giới trí thức nói
riêng, mà xã hội Việt Nam truyền thống rất tôn trọng, điều tủi nhục lớn nhất là
họ không thể thay những người dân thấp cổ bé miệng nói lên một cách trung thực
tất cả những uất ức, những khổ nhục mà họ phải chịu.
Bởi vì, tại Việt Nam ngày nay những người
có thể nói thì ngòi bút đã bị cong; những người muốn nói thì ngòi bút đã bị bẻ
gẫy.
Nhưng tôi biết rõ một điều, và điều đó đã được ghi
chép trong lịch sử: Trí thức chân chính của Việt
Nam không bao giờ khiếp nhược.
Trân trọng kính chào quí vị.
Tu Viện Quảng Hương, Sài Gòn,
VN
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen