Phạm Thanh
Nghiên
Câu Chuyện Nhỏ của Tôi
Tôi xin
được phép kể vài mẩu chuyện nhỏ về việc nhà cầm quyền Việt Nam thực thi sứ mệnh
bảo vệ nhân quyền cho một công dân như tôi:
Kết
tội:
Tôi bị
bắt với một lý do rất… cười: tọa kháng tại nhà với biểu ngữ (được phía Cơ quan
An ninh điều tra kết luận rằng mang nội dung xấu): “Trường Sa - Hoàng Sa là của
Việt Nam. Phản đối công hàm bán nước ngày 14/9/1958 của Phạm
Văn Đồng”. Hơn 16 tháng sau ra tòa, tôi nhận bản án 4 năm tù giam, thêm 3 năm
quản chế về cái gọi là tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam” mà không hề dính dáng đến việc “tọa kháng”, hành vi trực tiếp
được nhà cầm quyền làm lý cớ bắt bỏ tù.
Hai
chứng nhân “quan trọng” được đưa từ Thanh Hóa vào làm công cụ buộc tội bị cáo.
Ông Nhiểm, ông Kính trông tội nghiệp với bộ mặt méo mó, khắc khổ ngồi lọt thỏm,
bị bao vây giữa vô vàn những mật vụ dưới hàng ghế dự khán, thay vì ở vị trí dành
cho người làm chứng theo quy định một phiên tòa. “Nếu thời gian quay trở lại hoặc có cơ hội khác, tôi
vẫn sẽ giúp đỡ họ - những ngư dân Thanh Hóa - dù tôi biết trước có thể những con
người này sẽ quay lại kết tội tôi. Họ buộc phải làm thế. Và tôi sẵn sàng tha thứ
cho họ.” Tôi đã nói những lời này trước tòa dành cho những ngư dân
Thanh Hóa tôi đã gặp và giúp đỡ hồi cuối tháng hai năm 2008.
Trong
khuôn khổ bài viết ngắn này, tôi sẽ không tường thuật lại chuyến đi Thanh Hóa
cùng Ngô Quỳnh. Bạn đọc nào quan tâm và muốn tìm hiểu sự thật, xin tìm đọc bài
viết “Uất ức - biển ta ơi!”tôi viết năm 2008. Tôi tin rằng, nếu ai còn là người
Việt Nam thì không thể không đau xót trước việc đồng bào mình bị bắt giết ngay
trên lãnh hải của Tổ Quốc mình, cũng như không thể phủ nhận Trường Sa, Hoàng Sa
là của Việt Nam. Chỉ vì vạch trần và tố cáo một sự thật bị Đảng và Nhà nước giấu
nhẹm, chỉ vì đòi quyền lợi chính đáng cho những nạn nhân, ngư dân Thanh Hóa mà
tôi và Ngô Quỳnh đã bị tước mất tự do - dù là một thứ tự do đang hấp
hối.
Biệt
giam:
Những
ngày đầu, tôi bị giam chung với các nữ tù hình sự khác. Trong cuộc vật lộn mưu
sinh, trở thành đủ loại tội phạm (họ vẫn thường tự hào rằng phải rất bản lĩnh
mới dám thách thức pháp luật) thì sự xuất hiện của một cô gái nhỏ bé bị gán tội
“chống Nhà Nước…” là điều ngoài sức tưởng tượng. Từ ngạc nhiên, tò mò rồi thiện
cảm, chúng tôi trở nên gần gũi với nhau. Được vài hôm, những ánh mắt thân thiện,
cảm mến biến mất. Thay vào đó là thái độ dè dặt, lảng tránh pha chút sợ sệt.
Chính sách cô lập bắt đầu có hiệu quả!
Sắp đến
giờ cơm chiều. Tiếng ổ khóa vang lên chát chúa. Tiếp đó là giọng nói lạnh tanh
của quản giáo: “Phạm Thanh Nghiên chuẩn bị nội vụ!”. Mọi ánh mắt đổ dồn về phía
tôi, lo lắng, thương cảm, hoảng hốt: “Chết rồi, bị đi ép cung rồi”, “chị ơi!
Biệt giam rồi. ”, “khổ thân, người bé như cái kẹo, chịu sao nổi cháu ơi”. Mỗi
người góp một tí, từ chai mắm, gói lạc, ít bột canh, cuộn băng vệ sinh… tất cả
được đùm vào một túi ni-lông, ấn vội vào tay tôi. Tôi không đủ thời gian đùn
đẩy. Nhận cũng tốt. Đây sẽ là vốn liếng giúp tôi “cầm cự”, chờ đợi đến lúc nhận
được quà tiếp tế từ gia đình. Tôi không sợ biệt giam, không sợ bị ép cung. Tôi
sợ những ánh mắt thương cảm của họ. Những tình cảm rất con người mà vì một sức
ép đáng sợ nào đó, họ đã buộc phải thủ tiêu đi.
Tôi bước
ra cửa, không ngoái lại nhìn. Sau lưng, vài giọt nước mắt lặng lẽ rơi. Nhà tù,
thì ra vẫn còn chỗ cho tình thương yêu và lòng nhân ái.
Dẫn tôi
đi là người cán bộ tên C. Sau này tôi được nghe nhiều chuyện về ông ta, chủ yếu
thành tích làm giầu bất chính và đánh tù. Tôi cắp túi quần áo, chân đất đi trên
những con hẻm nhếch nhác vì mưa phùn, qua những dãy nhà giam lạnh ngắt và cũ kỹ.
Trong những bức tường lặng câm kia là những sự chờ đợi và tuyệt vọng. Chờ đợi để
được phán xử không theo cách của con người, rồi hiến mình cho sự khổ ải và hao
mòn trong các trại cải tạo.
Khu giam
giữ mới có khoảng sân khá rộng. Sau khi làm các thủ tục cần thiết, C giao tôi
cho đồng nghiệp. Tôi đi theo K, cảm giác như đang bị nuốt vào một đường hầm. Lần
đầu tiên kể từ khi bị bắt, tôi mới thực sự thấy hết cái âm u của chốn ngục tù.
Chỉ khi dừng lại, tôi mới biết mình đang đứng trước một cánh cửa. Cửa mở, hai
đồng tử của tôi giãn ra: đây là nơi dành cho con người ư?
Cái gọi
là buồng giam rộng chừng 6m2. Hai bệ xi-măng đối diện nhau (chừa một lối đi hẹp
ở giữa, tù quen gọi là “xa lộ”) dùng làm chỗ nằm. Từ cửa đến chân bệ nằm còn
khoảng trống nho nhỏ để đồ ăn. Trong buồng không có nhà vệ sinh nên phải dùng
bô. Chỗ để bô cách chỗ để đồ ăn chừng 3 bước chân. Một trong hai bệ nằm có gắn
cố định một cùm sắt, dùng để cùm chân những người tù bị kỷ luật hoặc tử tù chờ
ngày thi hành án. Tôi vào sau L vài ngày, đương nhiên phải nằm chung với cái
cùm. L thường mắng tôi vì tội hay cho chân vào cùm. Bảo tôi không chịu kiêng kỵ,
có ngày bị cùm thật cũng nên. Hàng ngày tôi đi bộ dọc trên “xa lộ”, coi như tập
thể dục. Đoạn đường ngắn mấy bước chân, đi vài vòng phải nghỉ một lần để khỏi
chóng mặt. Mỗi ngày hai lần: sáng và chiều, công an mở cửa cho tù nhân ra ngoài
làm vệ sinh cá nhân và lấy cơm. Mỗi lần chừng 20 đến 30 phút. Hầu như ngày nào
tôi cũng phải đi cung nên mọi việc, từ giặt giũ, đổ bô, lấy cơm, rửa bát… L phải
kiêm hết. Có hôm, chưa làm vệ sinh xong, điều tra viên đã đứng đợi ngoài cửa.
Chắc chỉ có tù nhân lương tâm chúng tôi mới phải trải qua tình trạng ngồi bệ xí
trong sự chờ đợi và thúc giục của cả cai tù lẫn điều tra viên mà thôi. Gần 4
tháng biệt giam, tôi phải đi cung hàng chục lần, chưa kể thời gian ở buồng chung
hơn một năm. Chuyện này xin được kể trong một dịp khác.
L có tật
xấu, đi ngoài vô tội vạ, không theo giờ giấc. Nhiều hôm cứ đóng cửa buồng cô
nàng mới đi, mỗi lần như thế lại chữa ngượng: “Em luyện mãi mà không được, cứ nhìn thấy công an là
nó lại thụt vào. Hình như c*t sợ
công an chị ạ”. Hai cái bô chứa đầy
“sản phẩm” của L. Mùi xú uế bốc lên nồng nặc. Đã thế, cô nàng còn lên lớp tôi:
“Chị phải uống thật nhiều nước mới tốt cho sức khỏe, người đâu mà gầy đét, trông
chán lắm”. Tôi bảo: “Có hai cái ngai vàng, mày ngự cả hai, chị uống nhiều nước
thì chứa vào đâu?”. Cô nàng nhe hàm răng ám khói thuốc cười trừ. Nhìn L, tôi
thấm thía hai câu thơ (được cho là của ông Hồ): “Cửa tù khi mở không đau bụng,
đau bụng thì không mở cửa tù”.
Cánh cửa
sắt, may quá có sáu lỗ thông hơi (to bằng quả trứng chim cút) - thứ duy nhất làm
chúng tôi tạm quên mình đang ở trong một cái hộp. Hàng ngày được ra ngoài, tôi
thường vãi cơm ra sân để dụ lũ chim sẻ đến. Qua sáu cái lỗ thông hơi quý giá đó,
tôi và L luân phiên nhau chiêm ngưỡng, ngắm nghía chúng. L ước: “Giá biết bay như chúng, em sẽ bay về ôm hôn thằng Cu
cho thật đã”. Rồi như tiếc rẻ “Nhưng làm con chim bay được thì lại không lắc, không
phê được. Làm người như em, tuy tù tội nhưng được biết mùi đời. Sướng thân! Như
chị thì thiệt, chả biết đếch gì. Chán chết”. Tôi không thích tranh
cãi với L những lúc như thế. Lũ chim vô tâm, chúng nhặt nhạnh những hạt cơm cuối
cùng rồi bay đi, mặc kệ tôi ngẩn ngơ. Không có cách nào gọi chúng lại. Tôi tủi
thân, đâm ra giận chúng, hôm sau không vãi cơm cho chúng nữa. Theo thói quen, lũ
chim bay đến ngơ ngác, tìm kiếm rồi bỏ đi. Tôi buồn! Từ đó không dám tự trừng
phạt mình nữa.
Một lần
đi cung:
Một vật
gì giống như con rắn nằm lù lù giữa sân. Vừa nhận ra thứ đó dành cho mình, một
luồng hơi lạnh chạy dọc sống lưng. Sau cái rùng mình, mặt tôi nóng ran, hai thái
dương giật liên tục. Không thể để cơn phẫn nộ được dịp bung ra. Tôi sẽ luồn chân
vào đó. Phải nếm trải hết mọi cay đắng của người tù. Tôi đứng im, ngoan ngoãn
cho K xiềng chân mình. Nét ái ngại lộ rõ trên gương mặt anh ta: “Chị Nghiên đi
chậm thôi, sẽ đỡ đau”. Tôi hít một hơi thở sâu chờ K mở cửa. Ánh mắt tôi đập vào
ánh mắt người điều tra viên. Dù cố tỏ ra tự nhiên, nhưng tôi biết anh ta chứ
không phải tôi đang bị chi phối bởi cái xiềng chân. Tôi không đi chậm như lời
khuyên của K. Bị thôi thúc bởi lòng kiêu hãnh, tôi bước thật nhanh bất chấp hai
vòng xích đập vào mắt cá chân đau điếng. Tôi không cho phép anh ta có cơ hội
thấy tôi trong bộ dạng chậm chạp và đáng thương. Chỉ thể hiện ở bước đi thôi
chưa đủ, tôi bông phèng:
- Này
anh, giúp tôi một việc được không?
- Việc
gì chị?
- Nhờ
anh đăng ký với kỷ lục ghi-nét (Guinness), công nhận tôi là người phụ nữ có cái
lắc chân to và độc nhất thế giới nhé?
Bị bất
ngờ, anh ta im lặng. Sau một hồi, tính háo thắng trỗi dậy, anh ta trả
đũa:
- Nếu
bây giờ tôi bắc thang cho chị trèo tường về, chị có về không?
- Sao
nghiệp vụ anh kém thế?
- Gì
cơ?
- Tôi
bảo nghiệp vụ anh kém vì anh đi điều tra tôi mà không hiểu gì về tôi. Này nhé,
tôi vào đây một cách đường hoàng thì cũng đường hoàng rời khỏi đây. Không phải
các anh tùy tiện bắt rồi thả vô tội vạ là được.
Có lẽ
anh ta thấy tiếc về câu hỏi vừa rồi.
Một cán
bộ trực trại và một điều tra viên khác đã chầu sẵn ở buồng hỏi cung. Chờ tôi
ngồi xuống, trực trại rướn người qua mặt tôi, kéo thanh sắt vốn được bắt vít cố
định nơi tay vịn, khóa lại. Động tác rất dứt khoát với vẻ mặt rất nghiêm trọng.
Chắc đấy là thứ công cụ được phát minh ra để bảo vệ các nhân viên điều tra khi
hỏi cung những tên tội phạm thuộc diện đặc biệt nguy hiểm. Thế ra, tôi được liệt
vào loại “đặc biệt nguy hiểm” cơ đấy. Tôi quan sát việc liên quan đến mình như
một kẻ thực sự bị thuần phục. Xong việc, viên trực trại lui về đứng phía sau tôi
(chắc sẵn sàng tung đòn cứu đồng đội nếu đối tượng manh động). Hai điều tra viên
đặt hồ sơ lên bàn:
- Chúng
ta bắt đầu làm việc!
Tôi lơ
đễnh nhìn lên trần nhà.
- Chúng
ta làm việc thôi chị Nghiên.
- Anh
bảo gì cơ?
Vẻ ngoan
ngoãn lúc đầu của tôi khiến họ không chuẩn bị tâm lý đối phó cho sự phản
công.
- Chúng
ta vào việc…
- Làm gì
có chuyện ấy. Các anh nghĩ tôi sẽ làm việc với các anh trong tình trạng này
sao?
- Đây là quy định
của…
- Là quy định của
các anh thôi. Nguyên tắc của tôi là không làm việc với các anh trong tình trạng
này.
Hai điều tra viên
nhìn tôi chằm chằm. Tôi tiếp tục nhìn lên trần nhà, lưng dựa ra sau, các ngón
tay gõ gõ vào thanh sắt chắn ngang trước mặt, chân đung đưa khiến cái xiềng cọ
xuống nền nhà phát ra thứ âm thanh khô khốc, nghe đến sốt ruột. Cuối cùng, một
trong hai người điều tra viên phải ra hiệu cho trực trại mở xiềng chân và thanh
sắt chắn ngang ra. Tôi thôi nhìn lên trần nhà:
- Đây sẽ là lần đầu
và cũng là lần cuối tôi cho phép các anh làm thế. Nếu việc này còn tái diễn thì
các anh sẽ chỉ nhận được một thứ duy nhất từ tôi, đó là sự im lặng. Mong các anh
nhớ cho.
Trở về buồng giam,
tôi mệt mỏi nằm vật xuống. Nhìn L với đôi mắt đỏ hoe, tôi đâm cáu. Cô nàng mặc
cho tôi mắng mỏ, cứ sấn vào xoa xoa bóp bóp chỗ đau cho tôi. Tôi hắt hủi cô nàng
để khỏi phải thương hại mình. Tôi nghĩ đến chú Nghĩa, đến Ngô Quỳnh và các anh
em khác bị bắt cùng đợt với tôi. Không biết họ bị đối xử ra sao? Nhưng tôi tin,
dù ở trong hoàn cảnh nào thì những người anh em ấy (sẽ không cáu gắt bạn tù vô
lối như tôi) mà sẽ ngạo nghễ và nở nụ cười nhân ái vì nhà tù là sự lựa chọn “bất
khả kháng”, là cánh cửa duy nhất để đến với tự do.
viết
sau những ngày mới ra tù.
* * * * * * * * * * * * * * * * * *
* * * *
Ghi chú :
Bà Phạm Thanh Nghiên (36 tuổi) là một nhà báo
độc lập và bênh vực Nhân Quyền. Có lòng yêu nước thương đồng bào, bà là tác giả
của những bài phóng sự được nhiều người đọc trên Internet, như là ‘’Chuyến Đi Nhạy
Cảm’’ và ‘’ Uất Ức - Biển Ta
Ơi !’’. Bà bị bắt ngày 18 tháng 9 năm 2008 trong
chiến dịch mùa thu công an CS đàn áp và bắt giam nhiều nhà dân chủ đối kháng chế
độ CS VN độc tài tham nhũng và tố cáo đế quốc Trung cộng xâm lược*. Mãi đến ngày
29 tháng giêng năm 2010, bà Phạm Thanh Nghiên mới bị tòa CS Hải Phòng kết án 4
năm tù giam và 3 năm tù quản chế về tội ‘’tuyên truyền chống nhà nước CS’’. Bà
bị lưu đày tại trại tập trung số 5 Thanh Hóa cho tới hết hạn tù bất công vào
ngày 18 tháng 9 năm 2012. Bà Phạm Thanh Nghiên được tổ chức quốc tế Quan Sát
Nhân Quyền (Human Rights Watch) trao tặng Giải Tự Do Ngôn Luận và Bày Tỏ Quan
Điểm năm 2009 cùng với nhà báo Nguyễn Văn Hải (Điếu Cày), nhà giáo Nguyễn Thượng
Long, thượng tọa Thích Thiện Minh, ông Trần Anh Kim và ông Vi Đức
Hồi.
* Những tù nhân yêu nước và bênh vực Nhân
Quyền được biết tiếng thời kỳ đó gồm có các nhà cầm bút tranh đấu như các ông
Nguyễn Xuân Nghĩa, Trần Đức Thạch, Ngô Quỳnh,
Nguyễn Mạnh Sơn, Nguyễn Văn Túc, Nguyễn Văn Tính, Nguyễn Kim Nhàn và
Vũ Hùng. Họ đã lần lượt bị kết án
tù giam từ 2 đến 6 năm kèm theo án tù quản chế. Hiện nay, nhà văn Nguyễn Xuân
Nghiã (6 năm tù giam và 3 năm tù quản chế) còn bị lưu đày tại trại lao công
cưỡng bách số 6 huyện Thanh Chương tỉnh Nghệ An. Vì không nhận tội và tuyệt thực
phản đối án tù bất công và điều kiện giam cầm tồi tệ, ông Nguyễn Xuân Nghiã
thường xuyên bị biệt giam và đối xử vô nhân đạo, ngay cả khi bọn chủ ngục bị
buộc phải đưa ông đi giải phẩu. Lịch sử hiện đại của nhân loại nhắc cho nhớ rằng
thủ phạm và đồng lõa của những tội ác đối với tù nhân chính trị, ngôn luận và
lương tâm sẽ phải trả lời trước Công Lý quốc tế. Tin cho biết ông Nguyễn Kim
Nhàn chỉ ra khỏi trại tù vài tháng thì bị bắt lại hồi tháng 6 năm 2011 và bị kết
án 5 năm 6 tháng tù giam.
Genève ngày 28 tháng giêng năm
2013
Liên Hội
Nhân Quyền Việt Nam ở Thụy Sĩ
Ligue Viêtnamienne
des Droits de l’Homme en Suisse
Vietnamese
League for Human Rights in Switzerland.
* * * * * * * * * * * * * * * * * *
* * * * * * * * * * * * *
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen